TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DI LINH, TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 28/2018/HSST NGÀY 15/08/2018 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 15 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 27/2018/TLST-HS ngày 19 tháng 7 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số28/2018/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 8 năm 2018 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Nguyễn Thế A (tên gọi khác: Cu A), sinh năm 1989 tại: Lâm Đồng.
Nơi cư trú: tổ dân phố 19, thị trấn D, huyện D, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: làm nông; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đ (đã chết) và bà Nguyễn Thị Thanh Ng (đã chết);
Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/3/2018. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện D. Có mặt
2. Họ và tên: Trần Lê Vũ M (tên gọi khác: Minh bợp), sinh năm 1989 tại: Lâm Đồng.
Nơi cư trú: số nhà 1049, đường H, tổ dân phố 19, thị trấn D, huyện D, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: làm nông; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Ngọc Th (đã chết) và bà Lê Thị G; có vợ Nguyễn Thị Diễm Th và một người con sinh năm 2011.
Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/2/2018. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện D. Có mặt
3. Họ và tên: Lê Quang M (tên gọi khác: Minh Đ ), sinh năm 1997 tại: Lâm Đồng.
Nơi cư trú: số nhà 35/5, đường Lê Thị Hồng G, thị trấn D, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: làm nông; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Th và bà Ngô Trần Hoài Th;
Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/4/2018. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện D. Có mặt
Bị hại:
1. Ông Nguyễn Văn N; địa chỉ: khu phố 8, thị trấn L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt
2. Bà Nguyễn Thị Ngọc H; địa chỉ: thôn T, xã T, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt
3. Bà Lê Thị Kiều A; địa chỉ: thôn T, xã Đ, huyện D, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt
4. Bà Phạm Thúy H; địa chỉ: thôn Ph, xã Ph, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.
5. Bà Nguyễn Thị Thanh Th, địa chỉ: thôn T, xã T, huyện D, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt
6. Bà Nguyễn Minh H, địa chỉ: thôn Ph, xã Ph, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Có mặt
7. Bà Nguyễn Thị L; địa chỉ: khu phố 8, thị trấn L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 24 giờ, ngày 04/02/2018, Nguyễn Thế A cùng Trần Lê Vũ M, Lê Quang M, Nguyễn Tấn L và Phạm Văn Ý đi đến khu vực Chợ mới D với mục đích xin bốc xếp hàng hóa cho các xe bỏ hàng tại chợ, nhưng không ai thuê. Lúc này, Thế A cầm theo dao và rủ cả nhóm đi thu tiền của những xe vào khu vực chợ bỏ hàng để lấy tiền tiêu xài, tất cả đồng ý. Sau đó Thế A, Vũ M, Quang M, Lvà Ý đến nói với những xe vào chợ: “Từ hôm nay xe nào vào chợ phải nộp tiền đậu xe, xe nhỏ thu 50.000 đồng, xe lớn thu 100.000 đồng”. Cả nhóm của Thế A cùng đi thu tiền xe, sau khi nghe nhóm của Thế A nói như vậy thì một số chủ xe vì lo sợ nhóm của Thế A quậy phá việc làm ăn ở chợ nên đồng ý đưa tiền theo yêu cầu. Ngoài ra có hai chủ xe không đồng ý nên cự cãi lại, nói từ trước đến giờ không có ai thu tiền như thế cả, mà cụ thể là chị Phạm Thúy H. Sau khi nghe chị H nói thì Thế A chửi bà im đi rồi dùng chân đạp vào người chị H làm chị H ngã xuống rồi Thế A bỏ đi ra chỗ khác. Lúc đó Quang M nói là thôi đưa tiền đi không mấy anh lại đánh, sau đó chị H đi mượn tiền đưa cho Quang M. Ngoài ra còn có một tài xế không rõ tên tuổi, địa chỉ cự cãi thì Thế A cầm dao chỉ về hướng người tài xế để hù dọa, sau đó người tài xế này đưa tiền cho Nguyễn Tấn L.
Đến khoảng 04 giờ, ngày 05/02/2018, Nguyễn Thế A cùng đồng bọn đã chiếm đoạt tiền của các chủ xe và tài xế ở chợ là 847.000 đồng. Sau khi về đến nơi ở của Ý, Nguyễn Thế A chia cho Trần Lê Vũ M, Lê Quang M, Phạm Văn Ý và Nguyễn Tấn L mỗi người 100.000 đồng. Số tiền còn lại Nguyễn Thế A giữ, khi bỏ chốn Thế A cùng L, Ý tiêu xài cùng nhau hết.
Qua điều tra đã xác định được một số người bị hại đã bị Nguyễn Thế A cùng đồng bọn chiếm đoạt tiền gồm: anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1975, trú tại: Khu phố 8, thị trấn L, huyện Đ bị chiếm đoạt 50.000 đồng; chị Lê Thị T, sinh năm 1984, trú tại: Khu phố 40, thị trấn L, huyện Đ bị chiếm đoạt 100.000 đồng; chị Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 1975, trú tại: Thôn T, xã T, huyện Đ bị chiếm đoạt 100.000 đồng; chị Lê Thị Kiều A, sinh năm 1987, trú tại: Thôn T, xã Đ, huyện Dbị chiếm đoạt 50.000 đồng; chị Phạm Thúy H, sinh năm 1979, trú tại: Phương Mai1, xã Ph, huyện T, tỉnh Đồng Nai bị chiếm đoạt 100.000 đồng; chị Nguyễn Thị Thanh Th, sinh năm 1979, trú tại: Thôn T, xã T, huyện Di Linh bị chiếm đoạt 50.000 đồng; chị Nguyễn Thị Minh H, sinh năm 1966, trú tại: Phương Mai 2, xã Ph, huyện T, tỉnh Đồng Nai bị chiếm đoạt 50.000 đồng; chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1982, trú tại: Khu phố 8, thị trấn L, huyện Đ bị chiếm đoạt 47.000 đồng. Ngoài ra, còn một số bị hại khác do không thường xuyên bỏ hàng tại chợ mới D nên Cơ quan cảnh sát điều tra chưa triệu tập làm việc được.
Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D, Nguyễn Thế A, Trần Lê VũM, Lê Quang M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tiến hành thu giữ: 01 dao dài 50 cm, phần lưỡi dài 36 cm, cán bằng gỗ dài 14 cm; 01 áo khoác vải phần tay áo màu xanh, phần ngực và lưng áo màu vàng nâu; 01 áo khoác vải dù màu vàng + xanh của nam giới, 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng.
Về trách nhiệm dân sự: Do những người bị hại bị Nguyễn Thế A cùng đồng bọn chiếm đoạt số tiền không lớn nên không yêu cầu bồi thường gì.
Tại bản Cáo trạng số 28/Ctr-VKS ngày 18 tháng 7 năm 2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện D, tỉnh Lâm Đồng đã truy tố Nguyễn Thế A, Trần Lê Vũ M, Lê Quang M về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận diễn biến vụ việc đúng như bản Cáo trạng và không thắc mắc, khiếu nại gì nội dung bản cáo trạng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện D, tỉnh Lâm Đồng giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng khoản 1 Điều 170; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Nguyễn Thế A mức án từ 18 đến 24 tháng tù
Áp dụng khoản 1 Điều 170; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Trần Lê Vũ M, Lê Quang M mức án từ 12 đến 18 tháng tù
Lời nói sau cùng: bị cáo Nguyễn Thế A, Trần Lê Vũ M, Lê Quang M cho biết trong thời gian tạm giam rất ân hận về việc mình đã làm, nay nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, trái đạo đức vì vậy gửi lời xin lỗi tới những người bị hại và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt để các bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo khai nhận vào đêm 04/02/2018 và rạng sáng ngày 05/02/2018 dưới sự khởi sướng, cầm đầu của bị cáo Nguyễn Thế A, các bị cáo Trần Lê Vũ M, Lê Quang M và hai đối tượng là Nguyễn Tấn L, Phạm Văn Ý cùng thống nhất với Thế A đến tại khu vực Chợ mới Di Linh, sử dụng lực lượng đông người, trong đó bị cáo Thế A cầm theo hung khí chửi bới, đe dọa dùng vũ lực, uy hiếp tinh thần một số bà con tiểu thương ở nơi khác có xe đến bỏ hàng tại Chợ Di Linh làm họ lo sợ ảnh hưởng đến công việc làm ăn buôn bán nên bắt buộc phải chấp nhận giao nộp tiền mà các bị cáo yêu cầu là tiền gửi xe (xe lớn 100.000 đồng, xe nhỏ 50.000 đồng). Trong đó, cụ thể các bị cáo đã chiếm đoạt được của anh Nguyễn Văn N 50.000.000 đồng; chị Lê Thị T 100.000 đồng; chị Nguyễn Thị Ngọc H 100.000 đồng; chị Lê Thị Kiều A 50.000 đồng; chị Phạm Thúy H 100.000 đồng; chị Nguyễn Thị Thanh Th 50.000 đồng; chị Nguyễn Thị Minh H 50.000 đồng; chị Nguyễn Thị L 47.000 đồng và một số người khác nhưng do không bỏ hàng thường xuyên nên không xác định được. Tổng số tiền các bị cáo chiếm đoạt được là 847.000 đồng. Xét lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra lời khai người bị hại, biên bản nhận dạng và các tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án. Như vậy, hành vi như đã nêu trên của các bị cáo đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện D đã truy tố.
[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Tính chất mức độ hành vi phạm tội là nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, thể hiện sự coi thường kỷ cương pháp luật, ảnh hưởng xấu đến tình hình hoạt động buôn bán của tiểu thương tại Chợ mới D, gây mất an ninh trị an tại địa phương, hoang mang trong quần chúng nhân dân. Các bị cáo đều có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rất rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vì lòng tham tư lợi, lười lao động nhưng lại muốn thụ hưởng ngay lợi ích vật chất mà không cần bỏ công sức nên cố ý thực hiện. Do đó, để đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội thì cần xử phạt các bị cáo một mức án nghiêm minh, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian thích hợp để đảm bảo giáo dục riêng đối với bị cáo.
[4] Xét vai trò của các bị cáo trong vụ án thì Nguyễn Thế A là người có vai trò khởi xướng, chủ mưu lôi kéo các bị cáo khác cùng tham gia phạm tội, đồng thời cũng là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, do đó cần áp dụng mức hình phạt cao hơn so với các bị cáo khác mới tương xứng với hành vi phạm tội của Thế A. Còn Trần Lê Vũ M, Lê Quang M tham gia vụ án với vai trò đồng phạm giúp sức nên để đảm bảo nguyên tắc phân hóa vai trò trong đấu tranh phòng chống tội phạm cần xem xét mức hình phạt nhẹ hơn so với Thế A
[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Qúa trình điều tra, cũng như tại phiên tòa hôm nay các bị cáo thành khẩn khai báo, tại phiên tòa hôm nay được những người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; riêng bị cáo Thế A trong quá trình điều tra đã ra đầu thú nên cần cho các bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm skhoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
[6] Đối với Phạm Văn Ý và Nguyễn Tấn L, quá trình điều tra đã bỏ trốn khỏi địa phương nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Di Linh đã ra Quyết định truy nã đối với Nguyễn Tấn L và Phạm Văn Ý. Sau khi bắt được sẽ tiếp tục điều tra, xử lý theo quy định là phù hợp.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Qúa trình điều tra cũng như tại phiên tòa, những người bị hại cho rằng số tiền bị chiếm đoạt không lớn nên không có yêu cầu được nhận lại, do đó Hội đồng xử không đề cập. Đối với số tiền 847.000 đồng các bị cáo chiếm đoạt được thì cần xem đây là số tiền thu lợi bất chính, Cơ quan điều tra mới thu giữ được 100.000 đồng nên số tiền 747.000 đồng còn lại cần buộc các bị cáo liên đới có trách nhiệm nộp lại để sung ngân sách Nhà nước.
[8] Về xử lý vật chứng: Vật chứng chuyển sang Chi cục thi hành án dân sự huyện Di Linh ngày 19/7/2018 bao gồm:
- 01 dao dài 50 cm, phần lưỡi dài 36 cm, cán bằng gỗ dài 14 cm; 01 áo khoác vải phần tay áo màu xanh, phần ngực và lưng áo màu vàng nâu; 01 áo khoác vải dù màu vàng + xanh của nam giới. Xét không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy.
- 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng là tiền thu lợi bất chính nên tịch thu sung ngân sách Nhà nước.
[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thế A, Trần Lê Vũ M, Lê Quang M phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”
Áp dụng khoản 1 Điều 170; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt Nguyễn
Thế A 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/3/2018.
Áp dụng khoản 1 Điều 170; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều58 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt Trần LêVũ M 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/2/2018.
Áp dụng khoản 1 Điều 170; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều58 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt Lê Quang M 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/4/2018.
2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 dao dài 50 cm, phần lưỡi dài 36 cm, cán bằng gỗ dài 14 cm; 01 áo khoác vải phần tay áo màu xanh, phần ngực và lưng áo màu vàng nâu; 01 áo khoác vải dù màu vàng + xanh của nam giới .
Tuyên tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng
3. Về trách nhiệm dân sự: Buộc các bị cáo Nguyễn Thế A, Trần Lê Vũ M, Lê Quang M có trách nhiệm liên đới nộp số tiền 747.000.000 đồng để sung ngân sách Nhà nước.
4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội buộc các bị cáo Nguyễn Thế A, Trần Lê Vũ M, Lê Quang M mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 28/2018/HSST ngày 15/08/2018 về tội cưỡng đoạt tài sản
Số hiệu: | 28/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Di Linh - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/08/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về