Bản án 28/2018/HSST ngày 12/06/2018 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ YÊN BÁI, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 28/2018/HSST NGÀY 12/06/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 12 tháng 6 năm 2018 tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 33/2018/TLST- HS ngày 16 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 5 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Ngân Hoàng D - Tên gọi khác: Không

Sinh ngày 25 tháng 4 năm 1979 tại Yên Bái

Nơi cư trú: Tổ 8, phường M, thành phố Y, tỉnh Yên Bái.

Nghề nghiệp: Không Trình độ văn hóa: 12/12

Dân tộc: Giáy Giới tính: Nam

Tôn giáo: Không Quốc tịch: Việt Nam

Con ông: Ngân Mạnh H Con bà: Hoàng Thị X Vợ, con: Chưa có Tiền án, tiền sự: Không

Bị bắt, tạm giam ngày 28-12-2017, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại giam Công an tỉnh Yên Bái. Có mặt.

2. Ngân Hoàng Đ - Tên gọi khác: Không

Sinh ngày 12 tháng 12 năm 1976 tại Yên Bái

Nơi cư trú: Tổ 8, phường M, thành phố Y, tỉnh Yên Bái.

Nghề nghiệp: Không Trình độ văn hóa: 12/12

Dân tộc: Giáy Giới tính: Nam

Tôn giáo: Không Quốc tịch: Việt Nam

Con ông: Ngân Mạnh H Con bà: Hoàng Thị X

Vợ, con: Chưa có Tiền án, tiền sự: Không

Bị bắt, tạm giam ngày 27-12-2017, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại giam Công an tỉnh Yên Bái. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Anh Trần Đại P - Sinh năm 1982

Nơi cư trú: Tổ 38, phường Y, thành phố Y, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

- Người làm chứng:

Ông Lê Tiến D - Sinh năm 1977

Nơi cư trú: Tổ 43, phường Đ, thành phố Y, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Ngân Hoàng D và Ngân Hoàng Đ là đối tượng nghiện chất ma túy, thường xuyên mua ma túy những người không quen biết về chia nhỏ sử dụng cho bản thân và bán kiếm lời. Trong khoảng thời gian từ 16-12-2017 đến 21-12-2017 D đã 03 lần bán ma túy cho Lê Tiến A và Trần Đại P. Cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Vào khoảng 08 giờ ngày 16-12-2017, Lê Tiến A gọi vào số điện thoại 01637.143.484 của D hỏi mua 02 gói ma túy với giá 200.000 đồng/gói. D đồng ý rồi hẹn A đến khu vực gần Sở giáo dục tỉnh Yên Bái (thuộc tổ 22, phường Đồng Tâm, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái) để trao đổi mua bán ma túy. Tại đây, A đưa cho D 400.000 đồng, D nhận tiền rồi đưa cho A 02 gói ma túy. Số ma túy này A đã sử dụng hết cho bản thân.

Lần thứ hai và lần thứ ba: Vào khoảng 20 giờ ngày 20-12-2017 và khoảng 17 giờ ngày 21-12-2017, Trần Đại P gọi điện vào số điện thoại 01637.143.484 của D hỏi mua 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng. D đồng ý và hẹn P đến khu vực gần Sở nông nghiệp tỉnh Yên Bái (thuộc tổ 2, phường Minh Tân, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái) để trao đổi mua bán ma túy. Tại đây, P đưa cho D 200.000 đồng, D nhận tiền rồi đưa cho P 01 gói ma túy. Tổng cộng D đã bán cho P 02 gói ma túy với giá 400.000 đồng. Số ma túy này P đã sử dụng hết cho bản thân.

Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Yên Bái đã thu giữ của Ngân Hoàng D: 01 điện thoại di động màu đen, xám, đã qua sử dụng lắp sim có số thuê bao 0886.605.584 và số 01676.239.627 có số IMEI: 3594574035438585; 01 điện thoại di động màu đen, vàng đồng, loại máy màn hình cảm ứng, máy đã qua sử dụng, lắp sim có số thuê bao 01637.143.484 và số tiền 2.050.000 đồng.

Đối với Ngân Hoàng Đ, trong khoảng thời gian từ ngày 23 đến ngày 27-12-2017 Đ đã 03 lần bán tổng cộng 03 gói ma túy, loại hêrôin (các gói ma túy đều được đựng trong ống hút mà trắng hàn kín hai đầu) cho Trần Đại P. Cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Khoảng 14 giờ 30 ngày 23-12-2017, Trần Đại P gọi điện vào số điện thoại 0943.606.334 của Đ hỏi mua 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng. Đ đồng ý và hẹn P đến khu vực ngõ 996, thuộc tổ 6, phường Minh Tân, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái để trao đổi mua bán ma túy. Tại đây, P đưa cho Đ 100.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu UMY, Đ nhận tiền và điện thoại rồi đưa cho P 01 gói ma túy. Số ma tuý này P đã sử dụng hết cho bản thân.

Lần thứ hai: Vào khoảng 13 giờ ngày 26-12-2017, Trần Đại P gọi điện vào số điện thoại 01676.239.627 của Đ hỏi mua 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng. Đ đồng ý và hẹn P đến khu vực ngõ 996, thuộc tổ 6, phường Minh Tân, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái để trao đổi mua bán ma túy. Tại đây, P đưa cho Đ 200.000 đồng, Đ nhận tiền rồi đưa cho P 01 gói ma túy. Số ma tuý này P đã sử dụng hết cho bản thân.

Lần thứ 3: Vào khoảng 17 giờ ngày 27-12-2017, P gọi điện vào số điện thoại 0943.606.334 của Đ để hỏi mua 01 gói ma túy, nhưng Ngân Hoàng D là em trai ruột của Đ nghe máy. P hỏi mua của D 01 gói ma túy nhưng D trả lời là không có ma túy để bán. Ngay sau đó P nhờ D cho gặp Đ và hỏi mua của Đ 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng và xin chuộc lại chiếc điện thoại nhãn hiệu UMY P đã cầm cố cho Đ vào ngày 23-12-2017 (D không biết nội dung trao đổi giữa Đ và P). Đ đồng ý và hẹn P đến khu vực ngõ 996, thuộc tổ 6, phường Minh Tân, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái để trao đổi mua bán ma túy. Sau đó Đ một mình đi đến điểm hẹn gặp P và để 01 gói ma túy trên bờ tường để bán cho P. Khi Đ và P đang trao đổi về việc mua bán ma túy thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Yên Bái phát hiện bắt quả tang.

Thu giữ tại bờ tường gần chỗ Đ đứng: 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng được hàn kín hai đầu, có nhiều nốt lồi lõm, bên trong có chứa 0,01 gam là ma tuý, loại Heroine; thu giữ của Đ: Tại túi quần bên phải phía trước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu trắng có số thuê bao 0943.606.334 và tại túi quần bên trái phía trước số tiền 260.000 đồng. Thu giữ của Trần Đại P 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu trắng có số thuê bao 0918.258.261 và số tiền 100.000 đồng.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Đ, Công an thành phố Yên Bái đã thu giữ: 01 cân tiểu ly màu trắng; 25 túi nilon màu trắng, miệng có khóa kẹp nhựa, trên mép túi có viền kẻ màu đỏ; 01 lọ nhựa màu trắng có nắp màu vàng, bên trong có 01 đoạn ống nhựa màu trắng được hàn kín, bên trong có chứa 0,07 gam là ma tuý, loại Heroine; 01 giấy chứng minh nhân dân số 060.803.391 mang tên Ngân Hoàng Đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG vỏ màu trắng đã qua sử dụng, không có sim.

Quá trình điều tra, Công an thành phố Yên Bái đã trả lại cho Trần Đại P 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu trắng có số thuê bao 0918.258.261.

Tại phiên tòa, các bị cáo Ngân Hoàng D và Ngân Hoàng Đ thành khẩn khai báo, thừa nhận đã thực hiện hành vi như đã nêu trên. Các bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Cáo trạng số: 34/Ctr-VKS-TP ngày 14-5-2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái truy tố Ngân Hoàng Đ và Ngân Hoàng D về tội "Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm b khoản 2 điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Yên Bái vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Ngân Hoàng Đ và Ngân Hoàng D phạm tội "Mua bán trái phép chất ma tuý”.

- Về hình phạt:

+ Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999. Xử phạt: Ngân Hoàng Đ từ 08 năm đến 09 năm tù.

+ Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999. Xử phạt: Ngân Hoàng D từ 08 năm 06 tháng đến 09 năm 06 tháng tù.

- Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

- Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Yên Bái, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Yên Bái, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng; các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập và đánh giá. Như vậy, đã đủ cơ sở kết luận: Trong các ngày 16, 20 và 21-12-2017, tại các khu vực cổng sở Giáo dục tỉnh Yên Bái (thuộc tổ 22, phường Đồng Tâm, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái) và khu vực cổng sở Nông nghiệp tỉnh Yên Bái (thuộc tổ 2, phường Minh Tân, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái), Ngân Hoàng D đã ba lần bán tổng cộng 04 gói ma túy loại Hêrôin (trong đó một lần bán cho Lê Tiến A 02 gói,và hai lần bán cho Trần Đại P 02 gói). Tổng số tiền bán ma túy D thu được là 800.000 đồng.

Trong các ngày 23, 26 và 27-12-2017, tại khu vực ngõ 996 thuộc tổ 6 phường Minh Tân, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái, Ngân Hoàng Đ đã ba lần bán 03 gói ma tuý loại Heroine cho Trần Đại P thu được tổng số tiền 300.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu UMY. Ngoài ra, còn tàng trữ trái phép 0,08 gam chất ma tuý loại heroine với mục đích để bán và sử dụng.

Các hành vi này của Ngân Hoàng D và Ngân Hoàng Đ thực hiện trước 0 giờ ngày 01-01-2018, theo quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì không thuộc trường hợp có lợi hơn tại Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, nên cần xét xử bị cáo theo Bộ luật Hình sự năm 1999. Do đó, các hình vi nêu trên của các bị cáo Ngân Hoàng D và Ngân Hoàng Đ đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999.

[3] Xét các hành vi của các bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước ta về các chất ma túy, ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển giống nòi của dân tộc, gây nguy hại rất lớn cho xã hội về nhiều mặt. Hành vi của các bị cáo cần phải đưa ra xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[4] Xét nhân thân: Các bị cáo là người có sức khỏe, có năng lực trách nhiệm hình sự, biết việc làm của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Các bị cáo hiểu rõ tác hại của ma tuý đối với sức khoẻ con người nhưng vì mục đích kiếm lời và để thỏa mãn nhu cầu của bản thân nên đã thực hiện tội phạm. Đối với bị cáo Ngân Hoàng D ngày 02-7-2013 bị Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu xử phạt 02 năm tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" (đã được xóa án tích), nhưng không lấy đó làm bài học kinh nghiệm mà tiếp tục phạm tội. Đây thể hiện sự coi thường pháp luật, ý thức tự rèn luyện bản thân của mỗi bị cáo là rất kém. Vì vậy, cần có hình phạt thỏa đáng, tương xứng với mức độ, hành vi phạm tội của mỗi bị cáo, cách ly khỏi xã hội để giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng chống tội phạm nói chung.

[5] Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét cho các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ: Thành khẩn khai báo và tự thú về hành vi trước đó, để giảm nhẹ cho mỗi bị cáo một phần hình phạt.

[6] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản, nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung.

[7] Đối với Lê Tiến A và Trần Đại P là người mua ma túy của D và Đ để sử dụng. Xét hành vi chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, nên Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử phạt hành chính.

[8] Đối với những người đã bán ma túy cho D và Đ. Quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ nên không đủ cơ sở để điều tra xử lý.

[9] Về vật chứng và trách nhiệm dân sự:

- Đối với 0,08 gam chất ma tuý loại Heroine thu giữ của Ngân Hoàng Đ. Cơ quan giám định lấy toàn bộ làm mẫu giám định hết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Qua các lần bán ma túy D thu được 800.000 đồng và Đ thu được 300.000đồng. Đây là tiền do phạm tội mà có, nên cần tịch thu và truy thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với số tiền 100.000 đồng thu giữ của Trần Đại P. Xét thấy, có liên quan đến việc phạm tội, nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu MASSTEL, màu trắng đen đã qua sử dụng có số IMEI: 358116001073172 lắp sim có số thuê bao 0943.606.334 thu giữ của Đ; 02 điện thoại di động thu giữ của D (01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen viền trắng loại cảm ứng bị vỡ màn hình có số IMEI1: 911386001258392, số IMEI2: 911386001258400, có số thuê bao 01637.143.484 và 01 điện thoại di động màu đen màu đen loại bàn phím, lắp sim có số thuê bao 0886.605.584 và số 01676.239.627). Xét thấy, đây là phương tiện dùng vào việc phạm tội, cần tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động cảm ứng nhãn hiệu Samsung vỏ màu trắng đã qua sử dụng, không có sim, 01 cân điện tử màu trắng trên có ghi chữ “Cân tiểu ly hoa hằng” thu giữ khi khám xét nơi ở của Đ, 01 chứng minh nhân dân số

060803391 mang tên Ngân Hoàng Đ. Xét thấy, không liên quan đến việc phạm tội, cần trả lại cho Đ.

- Đối với số tiền 2.050.000 đồng thu giữ của Ngân Hoàng D. Xét thấy, không liên quan đến việc phạm tội, cần trả lại cho Đ.

- Đối với 02 coóng thủy tinh đựng trong hộp nhựa trắng, 25 túi nhựa trắng, miệng có khóa kẹp viền đỏ, 01 lọ nhựa màu trắng có nắp vàng, 06 vỏ phong bì khi mở niêm phong. Xét không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Về án phí và các vấn đề khác: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố: Các bị cáo Ngân Hoàng D và Ngân Hoàng Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; các điểm p, o khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.

- Xử phạt: Ngân Hoàng D 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 28-12-2017.

- Ngân Hoàng Đ 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 27-12-2017.

3. Về vật chứng:

Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự năm 1999, Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

- Truy thu nộp ngân sách Nhà nước: Bị cáo Ngân Hoàng D số tiền 800.000 đồng và bị cáo Ngân Hoàng Đ số tiền 40.000đồng;

- Trả lại cho bị cáo Ngân Hoàng D và số tiền 2.050.000 đồng.

- Trả lại cho bị cáo Ngân Hoàng Đ gồm: 01 điện thoại di động cảm ứng nhãn hiệu Samsung vỏ màu trắng đã qua sử dụng, không có sim, 01 chứng minh nhân dân số 060803391 mang tên Ngân Hoàng Đ và 01 cân điện tử màu trắng trên có ghi chữ “Cân tiểu ly hoa hằng”.

- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước:

+ Số tiền 260.000 đồng thu giữ của Ngân Hoàng Đ;

+ Số tiền 100.000 đồng thu giữ của Trần Đại P;

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu MASSTEL, màu trắng đen đã qua sử dụng có số IMEI: 358116001073172 lắp sim có số thuê bao 0943.606.334 thu giữ của Đ;

+ 02 điện thoại di động thu giữ của D gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen viền trắng loại cảm ứng bị vỡ màn hình có số IMEI1: 911386001258392, số IMEI2: 911386001258400, có số thuê bao 01637.143.484 và 01 điện thoại di động màu đen màu đen loại bàn phím, lắp sim có số thuê bao 0886.605.584 và số 01676.239.627.

- Tịch thu tiêu hủy: 02 coóng thủy tinh đựng trong hộp nhựa trắng, 25 túi nhựa trắng, miệng có khóa kẹp viền đỏ, 01 lọ nhựa màu trắng có nắp vàng, 06 vỏ phong bì khi mở niêm phong.

4. Về án phí:

Bị cáo Ngân Hoàng D và Ngân Hoàng Đ, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai. Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án;

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2018/HSST ngày 12/06/2018 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:28/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Yên Bái - Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về