TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 28/2018/HS-PT NGÀY 22/01/2018 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 22 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 584/2017/TLPT-HS ngày 03 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Trường D do có kháng cáo của ông Bùi Văn L là người đại diện hợp pháp của người bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2017/HS-ST ngày 21/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Trường D (T), sinh năm 1995 tại Bà Rịa-Vũng Tàu; nơi cư trú: xã B, huyện C, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; nghề nghiệp: Làm biển; trình độ học vấn: 07/12; giới tính: nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Trường G và bà Nguyễn Thị D1; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam ngày 23/5/2017 (có mặt).
- Bị hại: Anh Bùi Văn T1 sinh năm 1998 (đã chết).
Đai diện hợp pháp của bị hại: Ông Bùi Văn L và bà Nguyễn Thị C (là cha mẹ ruột của bị hại); nơi cư trú: xã B, huyện C, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (có mặt).
Người người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đại diện của bị hại: Luật sư Phan Thanh H – Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
(Trong vụ án có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập đến phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng hơn 23 giờ ngày 22/5/2017, Nguyễn Trường D cùng Bùi Văn T1 là bạn bè của nhau sau khi nhậu đã đến tiệm Internet L1 ở ấp A, xã B, huyện C, Bà Rịa – Vũng Tàu do anh Phan Văn T2 làm chủ để chơi. Trong lúc chơi, giữa D và anh Đỗ Văn Q là khách đến quán chơi phát sinh mâu thuẫn, xích mích lẫn nhau, D dùng tay đánh vào mặt anh Q 02 cái nhưng không gây thương tích. T1 bênh vực cho Q thì giữa D và T1 phát sinh mâu thuẫn dẫn đến đánh nhau bằng tay. Lúc này, anh Võ Minh L2 là người quản lý tiệm Internet cùng với một số người khác khuyên can và đuổi D, T1 ra sau tiệm. Khi ra sau tiệm, D và T1 tiếp tục xô xát đánh nhau, D bị T1 xô ngã gần kệ nhựa đựng chén đũa gần đó. D nhìn thấy có 01 (một) con dao trong đó nên cầm lấy con dao đứng dậy, D và T1 cùng xông vào nhau, T1 dùng tay đánh vào đầu D thì bị D cầm dao bằng tay phải đâm vòng cung từ phải sang trái vào lưng T1 01 (một) nhát làm T1 ngã quỵ xuống nền nhà. Lúc này, D cùng một số người đưa T1 đến Trung tâm y tế huyện C nhưng T1 đã chết trên đường đưa đi cấp cứu. Đến 01 giờ 30 ngày 23/5/2017, D đến Công an huyện C giao nộp điện thoại di động và khai nhận sự việc.
Quá trình điều tra, thực nghiệm điều tra, Nguyễn Trường D đã khai nhận, diễn tả hành vi của bản thân hoàn toàn phù hợp với lời khai người làm chứng và tài liệu về hiện trường vụ án (bút lục 11, 12, 28 đến 52, 78 đến 88).
Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 150/PC54-Đ4 ngày 16/6/2017, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu kết luận đối với nạn nhân Nguyễn Trường D như sau:
“1. Dấu hiệu chính qua giám định:
Vết thương rách da – cơ vùng hông lưng trái, hình khe, mép gọn, góc trên tù, góc dưới nhọn, kích thước 2 cm x 1 cm; Vết thương này xuyên thấu hông lưng trái vào khoang bụng theo chiều hướng từ sau ra trước, chếch từ phải qua trái, từ trên xuống dưới; xuyên đứt động mạch thận trái gây tràn máu toàn bộ quanh hố thận trái, xuyên rách phúc mạc thành sau vùng hông lưng trái vào ổ bụng, gây tràn máu khoang bụng.
2. Nguyên nhân chết:
Bùi Văn T1 chết do vết thương xuyên thấu vùng hông lưng trái, xuyên đứt động mạch thận trái, gây xuất huyệt nội, sốc mất máu cấp.
3. Các kết luận khác:
- Vật tác động gây tử vong Bùi Văn T1 là vật sắc nhọn, bản cứng – dẹt, 01 bờ sắc, 01 bờ tù, tác động trực tiếp vào vùng hông lưng trái cơ thể nạn nhân theo chiều từ sau ra trước, chếch từ phải qua trái, từ trên xuống dưới.
- Trong máu tử thi Bùi Văn T1, tìm thấy cồn Ethanol – nồng độ 1,2 g/l.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2017/HS-ST ngày 21/9/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trường D (T) phạm tội “Giết người”.
Áp dụng khoản 2 Điều 93; điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Trường D (T) 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/5/2017.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên bồi thường dân sự; tuyên về việc xử lý vật chứng, buộc bị cáo nộp án phí, tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Sau khi xử sơ thẩm, ngày 11/10/2017, đại diện hợp pháp của bị hại là ông Bùi Văn L kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử tăng hình phạt đối với bị cáo, với lý do mức án Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo là nhẹ, chưa tương xứng với hành vi do bị cáo gây ra. Mặt khác, đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu xem xét lại nhân thân, lý lịch của bị cáo. Theo ông L cho rằng, bị cáo đã từng có tiền án tại Phú Quốc – Kiên Giang.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Trường D khai nhận hành vi phạm tội như đã khai tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm cho xã hội và gây tổn thương, mất mát cho gia đình bị hại. Vì vậy, bị cáo xin lỗi gia đình bị hại và đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử giữ nguyên hình phạt đối với bị cáo.
Ông Bùi Văn L là đại diện hợp pháp của người bị hại Bùi Văn T1 vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử tăng hình phạt đối với bị cáo D. Vì mức án sơ thẩm tuyên đối với bị cáo là quá nhẹ, về tội danh cũng như điều khoản mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử là thỏa đáng, ông không kháng cáo về phần này.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm xét xử vụ án cho rằng, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, đã có đủ căn cứ xác định, Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm xét xử bị cáo D về tội “Giết người” theo Điều 93 Bộ luật Hình sự năm 1999 là đúng người, đúng tội. Xét hành vi của do bị cáo gây ra cho người bị hại là nghiêm trọng, mức án mà cấp sơ thẩm tuyên phạt đối với bị cáo 07 năm 06 tháng tù theo khoản 2 Điều 93 Bộ luật Hình sự năm 1999 là quá nhẹ. Tuy nhiên, hành vi phạm tội của bị cáo cũng bắt nguồn từ một phần lỗi của người bị hại và tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay đại diện hợp pháp của người bị hại ông L không kháng cáo về nội dung khoản truy tố xét xử đối với bị cáo, mà chỉ kháng cáo yêu cầu xử tăng hình phạt đối với bị cáo. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử theo khoản 2 Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999 là thỏa đáng.
Từ những phân tích trên vị đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận nội dung đơn kháng cáo của ông L, sửa án sơ thẩm theo hướng tăng hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Trường D lên mức từ 9 năm đến 10 năm tù.
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho gia đình bị hại trình bày tranh luận: Luật sư đồng ý với kết luận của vị đại diện Viện kiểm sát cấp cao tại phiên tòa phúc thẩm, ngoài ra luật sư có đề nghị Hội đồng xét xử xem xét không chấp nhận bị cáo có tình tiết giảm nhẹ là ra đầu thú sau khi phạm tội mà cấp sơ thẩm đã áp dụng, bởi lẽ chính bị cáo đã khai trong bản tự khai đầu tiên thể hiện bị cáo bị công an mời về trụ sở làm việc. Do vậy, vị luật sư đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của gia đình người bị hại, xét xử tăng hình phạt đối với bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 22/5/2017, tại tiệm Internet L1 ở ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, người bị hại Bùi Văn T1 chứng kiến giữa bị cáo D và anh Đỗ Văn Q xích mích, sau đó vì bị hại đứng ra bênh vực cho anh Q nên dẫn đến việc giữa bị cáo và bị hại xảy ra mâu thuẫn. Vụ việc đã được mọi người can ngăn, giải tỏa nhưng hai bên không chịu dừng lại mà vẫn tiếp tục xô xát với nhau bằng tay không ở phía sau quán. Bị cáo đã không kiềm chế được bản thân và dùng dao đâm bị hại một nhát vào lưng dẫn đến hậu quả bị hại tử vong.
[2] Với hành vi như đã nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo Nguyễn Trường D phạm tội “Giết người” theo Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999 là đúng người, đúng tội.
[3] Xét kháng cáo của ông Bùi Văn L là đại diện hợp pháp của bị hại Bùi Văn T1 kháng cáo yêu cầu Tòa phúc thẩm xét xử tăng hình phạt đối với bị cáo. Lý do ông cho rằng mức hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo là nhẹ, chưa tương xứng với hành vi do bị cáo gây ra. Ngoài ra, ông L đề nghị làm rõ việc bị cáo có tiền án hay không.
[4] Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm nhận định: Hành vi của bị cáo đặc biệt nguy hiểm, xâm hại đến khách thể quan trọng nhất được pháp luật hình sự bảo vệ đó là tính mạng của con người; xuất phát từ việc mâu thuẫn cãi vã dẫn đến ẩu đả giữa người bị hại và bị cáo. Tiếp theo, bị cáo không kìm chế được bản thân mà đã dùng dao nhọn đâm một nhát vào lưng người bị hại dẫn đến bị hại chết khi đưa đi cấp cứu. Hành vi đó thể hiện sự hung hãn có phần giáp danh với tình tiết mang tính côn đồ (qui định tại điểm n khoản 1 Điều 93 Bộ luật Hình sự năm 1999). Nhưng, trong quá trình tiến hành tố tụng, Tòa án cấp sơ thẩm không ai khiếu nại về vấn đề này nên chấp nhận lời khai có lợi cho bị cáo, xác định bị hại có phần lỗi trong vụ án là chửi thề và nhảy vào đánh bị cáo lúc bị cáo đã cầm dao. Tuy vậy, bị cáo cũng còn nhiều lựa chọn khác để tránh được sự xô xát với bị hại nhưng bị cáo không chọn, lại dùng dao tấn công bị hại. Do đó, cần phải áp dụng mức án nghiêm khắc để trừng trị hành vi mang tính hung hãn, coi thường tính mạng người khác của bị cáo, buộc phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài mới có tác dụng răn đe giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội, nhất là trong tình hình hiện nay, việc sử dụng bạo lực để giải quyết mâu thuẫn trong xã hội ngày càng gia tăng, cần phải nghiêm trị. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên mức hình phạt 07 năm 06 tháng tù đối với bị cáo là chưa nghiêm khắc và chưa tương xứng với hành vi mà bị cáo đã gây ra cho bị hại. Hơn nữa, việc Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ bị cáo ra đầu thú là không đúng bản chất của vụ việc, bởi tại bản tự khai đầu tiên của bị cáo vào ngày bị cáo đâm bị hại, chính bị cáo viết sau khi đâm bị hại bị cáo bị công an mời về trụ sở làm việc. Tuy nhiên, việc lập biên bản đầu thú của cơ quan điều tra cũng không đúng, Cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm cần phải rút kinh nghiệm. Vì vậy, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo ông Bùi Văn L là đại diện hợp pháp của người bị hại Bùi Văn T1 và sửa bản án sơ thẩm theo hướng tăng hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Trường D.
[5] Đối với việc ông L đề nghị Hội đồng xét xử xem xét có hay không việc bị cáo có tiền án thì Hội đồng xét xử nhận định như sau: căn cứ lý lịch và kết quả trích lục tiền án tiền sự của bị cáo thì việc xác định bị cáo không có tiền án tiền sự là đúng.
[6] Về án phí phúc thẩm: Bị cáo, đương sự kháng cáo không phải chịu án phí phúc thẩm.
[7] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hiệu kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015,
Chấp nhận kháng cáo của ông Bùi Văn L và bà Nguyễn Thị C là đại diện hợp pháp của người bị hại Bùi Văn T1.
Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2017/HS-ST ngày 21/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trường D (T) phạm tội “Giết người”.
Áp dụng khoản 2 Điều 93; điểm b và p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009;
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Trường D (T) 10 (mười) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 23/5/2017.
Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Trường D 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo cho việc thi hành án.
Đại diện hợp pháp của bị hại và bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 28/2018/HS-PT ngày 22/01/2018 về tội giết người
Số hiệu: | 28/2018/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/01/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về