Bản án 28/2018/HNGĐ-ST ngày 09/11/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 28/2018/HNGĐ-ST NGÀY 09/11/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 09 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 40/2018/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 7 năm 2018 về việc tranh chấp về ly hôn và nuôi con khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 19-10-2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 17/2018/QĐST-HNGĐ ngày 05-11-2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Vũ Hùng S; địa chỉ: Phố TH, phường TC, quận LC, thành phố Hải Phòng; có mặt tại phiên toà.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thu N; địa chỉ: Phố LTK, phường QT, quận HB, thành phố

Hải Phòng; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 09-5-2018 và được bổ sung bằng lời khai tại Bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn là ông Vũ Hùng S trình bày:

Ông Vũ Hùng S và bà Nguyễn Thị Thu N xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường TC, quận LC, thành phố Hải Phòng từ ngày 04-4-2003. Quá trình chung sống, hai bên phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do tính cách không hợp nhau và bất đồng quan điểm sống, tuy đã có gắng hàn gắn mối quan hệ nhưng mâu thuẫn gia đình ngày càng trầm trọng, hai bên đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Do cuộc sống hôn nhân giữa ông S và bà N không hạnh phúc, nên ông S đề nghị được ly hôn bà N.

Về con chung: Có 01 con chung là Vũ Hoàng N, sinh ngày 20-5-2003. Hiện nay, con chung đang sống cùng ông S. Bởi vậy, ông S đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và sẽ thỏa thuận với bà N việc cấp dưỡng nuôi con, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Ông Vũ Hùng S không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã gửi Thông báo về việc thụ lý vụ án và nhiều lần triệu tập bà Nguyễn Thị Thu N đến Tòa án để trình bày ý kiến về các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nhưng bà N vắng mặt, không có lý do và không gửi cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với các yêu cầu của nguyên đơn. Vì vậy, vụ án này thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Căn cứ Điều 21 của Bộ luật tố tụng dân sự, Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự: Việc xác định về thẩm quyền; về quan hệ pháp luật tranh chấp; về tư cách tham gia tố tụng của các đương sự; về việc thu thập chứng cứ; về thời hạn gửi hồ sơ cho Viển kiểm sát; việc cấp tống đạt văn bản tố tụng; Bị đơn vắng mặt tại phiên toà đã được tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên toà và việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử tại phiên toà, đã thực hiện đúng và đầy đủ theo qui định của Điều 28, Điều 35, Điều 48, Điều 49, Điều 97, Điều 203, Điều 220, Điều 227, Điều 228 và Điều 262 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét căn cứ Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đìnhNghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, chấp nhận các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Nguyên đơn phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, bị đơn, bà Nguyễn Thị Thu N được triệu tập hợp lệ đến phiên toà lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, không có lý do. Căn cứ điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn.

Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

 [2] Xét thấy, ông Vũ Hùng S và bà Nguyễn Thị Thu N xây dựng gia đình tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường TC nên hôn nhân này là hợp pháp. Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của nguyên đơn, ý kiến của gia đình hai bên, thấy rằng quá trình chung sống giữa ông S và bà N đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân tính cách và quan điểm sống không hợp nhau. Hai bên đã cố gắng hàn gắn mâu thuẫn, nhưng vẫn không khắc phục được, nên hai bên đã sống ly thân với nhau từ năm 2017 đến nay. Như vậy, mâu thuẫn ca vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên ông Vũ Hùng S đề nghị ly hôn với bà Nguyễn Thị Thu N. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, giải quyết cho ông Vũ Hùng S ly hôn với bà Nguyễn Thị Thu N là phù hợp với qui định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

 [3] Về con chung: Ông Vũ Hùng S và bà Nguyễn Thị Thu N có 01 con chung là Vũ Hoàng N, sinh ngày 20-5-2003. Tại phiên tòa, nguyên đơn đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, bà N đang đi làm việc xa, hiện tại cháu N đang ăn ở, học tập, sinh hoạt cùng bố là ông S. Thấy rằng, việc giao con chung cho nguyên đơn trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với nguyện vọng của con chung và đảm bảo được quyền lợi về mọi mặt của con chung. Bởi vậy, chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, giao con chung cho ông S trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với thực tế và quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con chung, ông S đề nghị tự thỏa thuận với bà N, bà N cũng không có ý kiến gì về vấn đề này. Do vậy, Tòa án không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết, bị đơn không có ý kiến gì về vấn đề này. Nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Nguyên đơn phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn;

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho ông Vũ Hùng S và bà Nguyễn Thị Thu N được ly hôn.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Vũ Hoàng N, sinh ngày 20-5-2003 cho ông Vũ Hùng S trực tiếp nuôi dưỡng, cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo qui định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con do hai bên tự thoả thuận với nhau, không yêu cầu Toà án giải quyết. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về án phí: Ông Vũ Hùng S phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, theo Biên lai thu tiền số: 0007759, ngày 19-7-2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hồng Bàng. Ông Vũ Hùng S đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2018/HNGĐ-ST ngày 09/11/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:28/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hồng Bàng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về