Bản án 28/2017/HSST ngày 27/12/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO THẮNG, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 28/2017/HSST NGÀY 27/12/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 30/2017/HSST ngày 17 tháng 11 năm 2017 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2017/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 12 năm 2017 đối với các bị cáo:

1. Hoàng Ngọc N; Sinh ngày: 23/01/1995 tại huyện B, tỉnh Hà Giang;

Nơi cư trú: Thôn V, xã V, huyện B, tỉnh Hà Giang; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Tày; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: (Không xác định được bố đẻ) và bà: Hoàng Thị T - Sinh năm 1962; Trú tại: Thôn V, xã V , huyện B, tỉnh Hà Giang;

Bị cáo chưa có vợ con. Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/8/2017; Tạm giam từ ngày 31/8/2017. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Bảo Thắng - Có mặt.

2. Đặng Văn K ; Sinh ngày: 19/9/1966 tại huyện K, tỉnh Thái Bình;

Nơi cư trú: Tổ 1, phường B, thành phố L, tỉnh Lào Cai; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 7/10; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Đặng Văn T (Đã chết năm 1995) và bà: Vũ Thị L - Sinh năm 1938; Trú tại: Tổ 27, phường B, thành phố L, tỉnh Lào Cai;

Bị cáo có 07 anh chị em, bị cáo là con thứ 3 trong gia đình.

Bị cáo có vợ thứ nhất: Nguyễn Thị H - Sinh năm 1966 (Đã ly hôn năm1987);

Vợ thứ hai: Lê Thị H - Sinh năm: 1962 hiện đang sinh sống tại tỉnh Đắc Lắc (Không xác định rõ địa chỉ cụ thể);

Bị cáo có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1987, con nhỏ nhất sinh năm 2004.

Tiền án: Bị cáo có 01 tiền án, tại bản án hình sự sơ thẩm số 80/2009/HSST ngày 28/7/2009 của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai đã tuyên phạt Đặng Văn K 05 năm 06 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" và buộc Đặng Văn K phải có trách nhiệm bồi thường cho công ty cổ phần đầu tư và xây dựng 573 số tiền là 177.857.500đ. Đặng Văn K còn phải chịu 50.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm và 8.114.300đ tiền án phí Dân sự sơ thẩm. Năm 2012 Đặng Văn K đã chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương. Đến nay bị cáo đã thi hành xong khoản tiền án phí hình sự và 2.918.500đ tiền án phí Dân sự sơ thẩm. Hiện nay khoản tiền còn phải thi hành là 5.195.800đ tiền án phí Dân sự. Đối với khoản tiền bồi thường bị cáo chưa thi hành do người được thi hành chưa có đơn yêu cầu thi hành án.

Tiền sự: Bị cáo có 03 tiền sự;

- Tại quyết định số 19/QĐ - UBND ngày 08/5/2014 của Ủy ban nhân dân phường Bình Minh thành phố Lào Cai đã áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc tại nhà đối với Đặng Văn K với thời hạn 03 tháng; Tại quyết định số 117/QĐ - UBND ngày 11/8/2014 của Ủy ban nhân dân phường Bình Minh, thành phố Lào Cai quyết định chuyển người nghiện ma túy từ giai đoạn 1 sang giai đoạn 2 tại gia đình đối với Đặng Văn K kể từ ngày 11/8/2014.

- Ngày 19/12/2014 Đặng Văn K bị Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn12 tháng theo quyết định số 28/QĐ - TA kể từ ngày 12/3/2015 đến ngày12/3/2016 Đặng Văn K được tái hòa nhập cộng đồng;

- Ngày 07/01/2017 Đặng Văn K bị áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc tại cộng đồng với thời hạn 03 tháng theo quyết định số 12/QĐ - UBND kể từ ngày 07/01/2017 đến ngày 07/3/2017 Đặng Văn K tái hòa nhập cộng đồng.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân rất xấu. Bản thân là đối tượng nghiện chất ma túy, năm 1995 bị Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai xử phạt 10 (Mười) năm tù về tội cố ý gây thương tích, theo bản án số 83/HSST ngày 13/10/1995. Đến năm 2000 Đặng Văn K được đặc xá về địa phương sinh sống và đã chấp hành xong các khoản tiền án phí. Đối với bản án này Đặng Văn K đã được xóa án tích.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/8/2017; Tạm giam từ ngày 31/8/2017. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Bảo Thắng - Có mặt.

Những người làm chứng: Nguyễn Văn T, Hà Quang V, Trần Văn H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 19/8/2017 Hoàng Ngọc N từ nhà ở xã V, huyện B, tỉnh Hà Giang sang địa bản tỉnh Lào Cai với mục đích đi tìm việc làm. Đến ngày 21/8/2017 N sang trung Quốc tìm mua ma túy để bán kiếm lời. Khi sang Trung Quốc N gặp một người đàn ông không quen biết, không rõ tên tuổi địa chỉ và mua của người này 01 chỉ Heroine với giá 3.200.000đ. Sau khi mua được ma túy N đem ma túy về thôn B, xã B, huyện B, tỉnh Lào Cai để cất giấu. Ngày 23/8/2017 N thuê phòng trọ của anh Trần Văn H - Sinh năm 1968 là người có hộ khẩu thường trú tại thôn B, xã B, huyện B với mục đích để làm địa điểm mua bán ma túy. Sau khi thuê được nhà N lấy ma túy mua được ở bên Trung Quốc đem về phòng trọ chia ra thành 55 gói nhỏ, gói lại bằng giấy bạc để bán kiếm lời, mỗi gói N bán với giá 100.000đ.

Ngày 24/8/2017 N thuê Đặng Văn K là đối tượng nghiện ma túy về ở cùng để bán ma túy, mỗi ngày N nuôi K ăn cơm và trả công cho K là 03 gói ma túy để K sử dụng. Trong thời gian từ ngày 24/8/2017 đến ngày 27/8/2017 N và K đã bán được 13 gói ma túy và thu được số tiền 1.300.000đ, số tiền này N là người trực tiếp quản lý. Trong thời gian này N đã trả công cho K là 12 gói trong 03 ngày K đã sử dụng hết. Đến ngày 28/8/2017 N tiếp tục đưa cho K 02 lần mỗi lần05 gói ma túy để bán, K đã bán được 08 gói cho các đối tượng nghiện chất ma túy không biết tên tuổi địa chỉ và thu được số tiền 800.000đ K đã đưa lại cho N.

Đến khoảng 10 giờ 15 phút ngày 28/8/2017 K và N đang ở phòng trọ thì Nguyễn Văn T - Sinh năm 1981 có hộ khẩu ở thôn X, xã K, huyện V, tỉnh Lào Cai đến hỏi mua ma túy thì K đồng ý bán cho T 01 gói với giá 100.000đ, T đã đưa cho K tờ tiền mệnh giá 100.000đ, K đưa lại cho T 01 gói ma túy, T đã cất gói ma túy vào bao thuốc lá Thăng Long màu vàng cầm trên tay còn K cầm tờ tiền cất vào túi quần đằng sau bên phải đang mặc trên người. Lúc này K và T bị tổ công tác thuộc phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy công an tỉnh Lào Cai phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Khi bắt giữ Đặng Văn K tự giác lấy trong túi quần bên trái đang mặc ra 01 lọ nhựa màu trắng bên ngoài có dòng chữ SDCHECK, bên trong lọ nhựa có 01 gói chất bột khô màu trắng K khai là Heroine cùng 01 chiếc điện thoại di động hiệu Viettel đã qua sử dụng giao nộp cho cơ quan điều tra.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của N và K cơ quan điều tra còn phát hiện thu giữ 20 gói ma túy của N cất giấu trong ruột gối để bán dần và thu giữ của N 01 điện thoại Iphone màu trắng, 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Hoàng Ngọc N và 2.000.000đ (Hai triệu đồng) tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam đang lưu hành, N khai là tiền bán Heroine của những ngày hôm trước và bán trong buổi sáng ngày 28/8/2017 mà có.

Tại bản kết luận giám định số 175/GĐMT ngày 31/8/2017 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai, kết luận:

- Bì 01: có 02 gói giấy màu trắng ký hiệu M1 và M2 trong đó:

+ M1: 0,03 gam chất bột khô màu trắng vón cục gửi giám định là loại chất ma túy Heroine (Tương đương với 01 gói thu giữ của Nguyễn Văn T);

+ M2: 0,05 gam chất bột khô màu trắng vón cục gửi giám định là loại chất ma túy Heroine (Tương đương với 01 gói thu giữ của Đặng Văn K );

- Bì 02: Tổng trọng lượng 1,10 gam chất bột khô màu trắng, vón cục gửi giám định là loại chất ma túy Heroine (Tương đương với 20 gói thu giữ trong ruột gối tại nơi ở của Hoàng Ngọc N ).

Quá trình giám định cơ quan giám định đã sử dụng toàn bộ mẫu vật của bì01 và trích 0,31 gam ở bì 02 để phục vụ giám định. Hoàn lại cơ quan trưng cầu giám định 0,79 gam Heroine.

Bản Cáo trạng số 28/CT-VKS ngày 15 tháng 11 năm 2017, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai đã truy tố các bị cáo Hoàng Ngọc N, Đặng Văn K về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điểm b Khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Thắng giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo Hoàng Ngọc N, Đặng Văn K về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng Điểm b Khoản 2 Điều 194; Điểm p Khoản 1 Điều 46; Điều 20, Điều 53 Bộ luật Hình sự 1999 xử phạt: Hoàng Ngọc N từ 07 năm 06 tháng đến08 năm tù.

Áp dụng Điểm b Khoản 2 Điều 194; Điểm p Khoản 1 Điều 46; Điểm g Khoản 1 Điều 48; Điều 20, Điều 53 Bộ luật Hình sự 1999 xử phạt: Đặng Văn K từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị áp dụng Khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự phạt mỗi bị cáo từ 05 đến 07 triệu đồng để sung công quỹ nhà nước.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm c Khoản Điều 41 Bộ luật hình sự; Điểm a Khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu 0,79 gam Heroine là vật chứng còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 phong bì của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Lào Cai, bên ngoài có ghi "Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu trong vụ Nguyễn Văn T, Đặng Văn K , có hành vi phạm tội về ma túy, thu giữ ngày 28/8/2017". để tiêu hủy.

Áp dụng Điểm b Khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; Điểm c Khoản 2 Điều76 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu số tiền 2.100.000đ ( Hai triệu một trăm nghìn đồng) thu giữ của Đặng Văn K và Hoàng Ngọc N là khoản tiền do phạm tội mà có hiện đang lưu giữ và gửi tại tài khoản số 3949.0.1052746 của Chị cục thi hành án dân sự huyện bảo Thắng tại kho bạc nhà nước huyện Bảo Thắng. Để sung công quỹ nhà nước.

Truy thu đối với Hoàng Ngọc N số tiền 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) do phạm tội mà có N đã chi tiêu hết để sung công quỹ nhà nước.

Áp dụng Điểm đ Khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu 01 lọ nhựa màu trắng bên ngoài được dán mác có dòng chữ SDCHECK; 01 baothuốc lá Thăng Long màu vàng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai để tiêu hủy.

Tuyên trả lại cho Hoàng Ngọc N 01 điện thoại Iphone màu trắng; 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Hoàng Ngọc N ; Trả lại cho Đặng Văn K 01 điện thoại Viettel màu đen và tuyên án phí, quyền kháng cáo cho các bị cáo theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Hoàng Ngọc N, Đặng Văn K khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Ngày 19/8/2017 Hoàng Ngọc N từ nhà ở xã V huyện B, tỉnh Hà Giang sang địa bàn tỉnh Lào Cai với mục đích đi tìm việc làm. Đến ngày 21/8/2017 N sang trung Quốc tìm mua ma túy để bán kiếm lời. Khi sang Trung Quốc N gặp một người đàn ông không quen biết, không rõ tên tuổi địa chỉ và mua của người này 01 chỉ Heroine với giá3.200.000đ. Sau khi mua được ma túy N đem ma túy về thôn B, xã B, huyện B, tỉnh Lào Cai cất giấu. Ngày 23/8/2017 N thuê phòng trọ của anh Trần Văn H - Sinh năm 1968 là người có hộ khẩu thường trú tại thôn B, xã B, huyện B với mục đích để làm địa điểm bán ma túy cho các con nghiện. Sau khi thuê được nhà N lấy ma túy mua được ở bên Trung Quốc đem về phòng trọ chia ra thành55 gói nhỏ, gói lại bằng giấy bạc để bán kiếm lời, mỗi gói N bán với giá100.000đ.

Ngày 24/8/2017 N thuê Đặng Văn K là người có hộ khẩu thường trú tại tổ1, phường B, thành phố L (Là đối tượng nghiện chất ma túy) về ở cùng để bán ma túy, mỗi ngày N nuôi K ăn cơm và trả công cho K là 03 gói ma túy để K sử dụng. Trong thời gian từ ngày 24/8/2017 đến ngày 27/8/2017 N và K đã bán được 13 gói ma túy và thu được số tiền 1.300.000đ, số tiền này N là người trực tiếp quản lý. Trong thời gian này N đã trả công cho K là 12 gói trong 03 ngày K đã sử dụng hết. Đến ngày 28/8/2017 N tiếp tục đưa cho K 02 lần mỗi lần 05 gói ma túy để bán, K đã bán được 08 gói cho các đối tượng nghiện chất ma túy không biết tên tuổi địa chỉ và thu được số tiền 800.000đ K đã đưa lại cho N.

Đến khoảng 10 giờ 15 phút ngày 28/8/2017 K và N đang ở phòng trọ thì Nguyễn Văn T - Sinh năm 1981 có hộ khẩu ở thôn X, xã K, huyện V, tỉnh Lào Cai đến hỏi mua ma túy thì K đồng ý bán cho T 01 gói với giá 100.000đ, T đã đưa cho K tờ tiền mệnh giá 100.000đ, K đưa lại cho T 01 gói ma túy, T đã cất gói ma túy vào bao thuốc lá Thăng Long màu vàng cầm trên tay còn K cầm tờ tiền cất vào túi quần đằng sau bên phải đang mặc trên người. Lúc này K và T bị tổ công tác thuộc phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy công an tỉnh Lào Cai phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Khi bắt giữ K tự giác lấy trong túi quần bên trái đang mặc ra 01 lọ nhựa màu trắng bên ngoài có dòng chữ SDCHECK, bên tronglọ nhựa có 01 gói chất bột khô màu trắng K khai là Heroine cùng 01 chiếc điện thoại di động hiệu Viettel đã qua sử dụng giao nộp cho cơ quan điều tra.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của N và K cơ quan điều tra còn phát hiện thu giữ 20 gói ma túy của N cất giấu trong ruột gối để bán dần và thu giữ của N 01 điện thoại Iphone màu trắng, 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Hoàng Ngọc N và 2.000.000đ (Hai triệu đồng) tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam đang lưu hành, N khai là tiền bán Heroine của những ngày hôm trước và bán trong buổi sáng ngày 28/8/2017 mà có. Như vậy trong khoảng thời gian từ ngày 24 đến ngày 28/8/2017 các bị cáo đã thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy nhiều lần cho nhiều người là tình tiết định khung được quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại bản kết luận giám định số 175/GĐMT ngày 31/8/2017 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai, kết luận: Số chất bột khô màu trắng vón cục thu giữ của Hoàng Ngọc N , Đặng Văn K và Nguyễn Văn T gửi đến giám định đều là loại chất ma túy Heroin có tổng trọng lượng là 1,18 gam. Do vậy có đủ cơ sở kết luận hành vi của các bị cáo Hoàng Ngọc N và Đặng Văn K phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điểm b Khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Thắng truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội. Bản thân các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hiểu biết nhất định về tác hại của ma túy. Đáng lẽ ra các bị cáo phải biết tu dưỡng rèn luyện bản thân trở thành người có ích cho xã hội và cho gia đình. Song các bị cáo không làm được điều đó mà dấn thân vào con đường phạm tội. Hành vi phạm tội của các bị cáo xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an trên địa bàn, tạo cơ hội cho các tai tệ nạn xã hội phát triển.

Trong vụ án này các bị cáo phạm tội mang tính chất đồng phạm giản đơn. Vì vậy Hội đồng xét xử cũng cần xem xét đánh giá tính chất, mức độ, vai trò của từng bị cáo để lên một mức án phù hợp tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo.

Đối với bị cáo Hoàng Ngọc N là người chủ động mua ma túy đem về thuê chỗ ở, chia thành nhiều gói nhỏ, với mục đích để bán kiếm lời. Ngay sau khi mua được ma túy bị cáo đã thuê Đặng Văn K về cùng ở để bán ma túy. Do vậy Hoàng Ngọc N là người có vai trò chính trong vụ án. Vì vậy cần phải xét xử nghiêm minh và lên một mức án phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian thì mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.

Xong xét về nhân thân bị cáo chưa có tiền án tiền sự, bản thân có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm o, p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự là người phạm tội tự thú; Thật thà khai báo, do vậy khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cũng cần xem xét giảm nhẹ phần nào trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Đối với bị cáo Đặng Văn K là người sau khi được N thuê về cùng ở và bán ma túy cho N, K đồng ý ngay. Do vậy Đặng Văn K phải chịu trách nhiệm hình sự với vai trò là đồng phạm trong vụ án.

Bản thân Đặng Văn K có 01 tiền án tại bản án hình sự sơ thẩm số 80/2009/HSST ngày 28/7/2009 của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai đã tuyên phạt Đặng Văn K 05 năm 06 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" và buộc Đặng Văn K phải có trách nhiệm bồi thường cho công ty cổ phần đầu tư và xây dựng 573 số tiền là 177.857.500đ. Đặng Văn K còn phải chịu50.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm và 8.114.300đ tiền án phí Dân sự sơ thẩm. Năm 2012 Đặng Văn K đã chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương. Đến nay bị cáo đã thi hành xong khoản tiền án phí hình sự và 2.918.500đ tiền án phí Dân sự sơ thẩm. Hiện nay khoản tiền còn phải thi hành là 5.195.800đ tiền án phí Dân sự. Đối với khoản tiền bồi thường bị cáo chưa thi hành do người được thi hành chưa có đơn yêu cầu thi hành án.

Tiền sự: Bị cáo có 03 tiền sự;

- Tại quyết định số 19/QĐ - UBND ngày 08/5/2014 của Ủy ban nhân dân phường Bình Minh thành phố Lào Cai đã áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc tại nhà đối với Đặng Văn K với thời hạn 03 tháng; Tại quyết định số 117/QĐ - UBND ngày 11/8/2014 của Ủy ban nhân dân phường Bình Minh, thành phố Lào Cai quyết định chuyển người nghiện ma túy từ giai đoạn 1 sang giai đoạn 2 tại gia đình đối với Đặng Văn K kể từ ngày 11/8/2014.

- Ngày 19/12/2014 Đặng Văn K bị Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn12 tháng theo quyết định số 28/QĐ - TA kể từ ngày 12/3/2015 đến ngày12/3/2016 Đặng Văn K được tái hòa nhập cộng đồng;

- Ngày 07/01/2017 Đặng Văn K bị áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc tại cộng đồng với thời hạn 03 tháng theo quyết định số 12/QĐ - UBND kể từ ngày 07/01/2017 đến ngày 07/3/2017 Đặng Văn K tái hòa nhập cộng đồng.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân rất xấu bản thân là đối tượng nghiện chất ma túy. Năm 1995 bị Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai xử phạt 10 (Mười) năm tù về tội cố ý gây thương tích, theo bản án số 83/HSST ngày 13/10/1995. Đến năm 2000 Đặng Văn K được đặc xá trở về địa phương sinh sống và đã chấp hành xong các khoản tiền án phí. Đối với bản án này Đặng Văn K đã được xóa án tích.

Mặt khác bản thân bị cáo có 01 tiền án về tội "Trộm cắp tài sản" chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội do cố ý. Do vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với tình tiết tăng nặng được quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự là tái phạm. Vì vậy đối với bị cáo cần phải xét xử nghiêm minh và lên một mức án phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài thì mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.

Xong tại Phiên tòa hôm nay, cũng như trong quá trình điều tra bị cáo đã khai nhận ra những lần bán ma túy trước đó và đã thành khẩn khai báo. Do vậy Hội đồng xét xử coi đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại Điểm o, p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự.

Liên quan trong vụ án này còn có Nguyễn Văn T là người mua 01 gói Heroine của Hoàng Ngọc N và Đặng Văn K . Xét thấy trọng lượng Heroine thu giữ của T là 0,03 gam, mục đích T mua về để sử dụng cho bản thân. Hành vi của T là không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nhưng phải được xử lý vi phạm hành chính đối với T. Tuy nhiên cơ quan điều tra đã triệu tập và xác minh T không có mặt tại nơi cư trú và cũng không rõ hiện nay T đang ở đâu. Do vậy cơ quan điều tra công an huyện Bảo Thắng tiếp tục theo dõi khi nào phát hiện sẽ xử lý sau. Hội đồng xét xử xét thấy là phù hợp nên không đề cập sử lý trong vụ án này.

Đối với người đàn ông quốc tịch người Trung Quốc là người bán Heroine cho Hoàng Ngọc N do không xác định được tên tuổi địa chỉ. Nên cơ quan điều tra không có đủ căn cứ để xử lý trước pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy là phù hợp nên không đề cập xử lý.

Đối với Trần Văn H là người cho Hoàng Ngọc N thuê phòng. Do Hùng không biết và không liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy của Hoàng Ngọc N và Đặng Văn K. Cơ quan điều tra không đề cập xử lý trách nhiệm đối với Trần Văn H là có cơ sở. Nên hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[2]Về hình phạt bổ sung: Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng Khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự tuyên phạt các bị cáo từ 5 đến 7 triệu đồng để xung công quỹ nhà nước và tru thu của Hoàng Ngọc N 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) là tiền do phạm tội mà có N đã chi tiêu hết để Sung công quỹ nhà nước. Hội đồng xét xử xét thấy là phù hợp nên cần phạt các bị cáo một khoản tiền nhất định và truy thu của N số tiền N đã chi tiêu để xung công quỹ nhà nước là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3]Về vật chứng: Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; Điểm a Khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu 0,79 gam Heroine là vật chứng còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 phong bì của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Lào Cai, bên ngoài có ghi "Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu trong vụ Nguyễn Văn T, Đặng Văn K , có hành vi phạm tội về ma túy, thu giữ ngày 28/8/2017" để tiêu hủy.

Áp dụng Điểm b Khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; Điểm c Khoản 2 Điều76 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu số tiền 2.100.000đ ( Hai triệu một trăm nghìn đồng) thu giữ của Đặng Văn K và Hoàng Ngọc N là khoản tiền do phạm tội mà có. Hiện đang lưu giữ và gửi tại tài khoản số 3949.0.1052746 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bảo Thắng tại kho bạc nhà nước huyện Bảo Thắng để sung công quỹ nhà nước.

Áp dụng Điểm đ Khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu 01 lọ nhựa màu trắng bên ngoài được dán mác có dòng chữ SDCHECK; 01 bao thuốc lá Thăng Long màu vàng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai để tiêu hủy.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên trả lại cho các bị cáo 01 điện thoại Iphone màu trắng thu giữ của Hoàng Ngọc N ; 01 điện thoại Viettel màu đen của Đặng Văn K là những tài sản của các bị cáo không liên quan gì đến hành vi phạm tội. Song Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục tạm giữ 01 điện thoại Iphone màu trắng thu giữ của Hoàng Ngọc N ; 01 điện thoại Viettel màu đen của Đặng Văn K để đảm bảo thi hành án.

Tuyên trả lại cho Hoàng Ngọc N 01 chứng minh thư nhân dân mang tênHoàng Ngọc N .

[4]Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Hoàng Ngọc N , Đặng Văn K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1. Về hình phạt: Áp dụng Điểm b Khoản 2 Điều 194; Điểm o, p Khoản 1 Điều 46; Điều 20, 53 Bộ luật hình sự xử phạt: Hoàng Ngọc N 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 28/8/2017.

Áp dụng Điểm b Khoản 2 Điều 194; Điểm o, p Khoản 1 Điều 46; Điểm g Khoản 1 Điều 48; Điều 20, 53 Bộ luật hình sự xử phạt: Đặng Văn K 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 28/8/2017.

2. Về hình phạt bổ sung: Áp dụng Khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự tuyên phạt bị cáo Hoàng Ngọc N 5.000.000đ (Năm triệu đồng); Bị cáo Đặng Văn K 5.000.000đ (Năm triệu đồng) để xung công quỹ nhà nước.

Truy thu của Hoàng Ngọc N 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) để sung công quỹ nhà nước.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án khoản tiền nói trên cho đến khi thi hành án xong, thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi xuất chậm trả do ngân hàng nhà nước quy định tương ứng với thời gian chậm thi hành án theo quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điểm b, c Khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; Điểm a, c, đ Khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tuyên tịch thu 0,79 gam Heroine là vật chứng còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 phong bì của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Lào Cai, bên ngoài có ghi "Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu trong vụ Nguyễn Văn T, Đặng Văn K , có hành vi phạm tội về ma túy, thu giữ ngày 28/8/2017". Hiện đang lưu giữ tại chi cục thi hành án Dân sự huyện Bảo Thắng để tiêu hủy.

- Tuyên tịch thu số tiền 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) có số Sê ri MG13999846 và 2.000.000đ ( Hai triệu đồng) thu giữ của Đặng Văn K và Hoàng Ngọc N là khoản tiền do phạm tội mà có hiện đang lưu giữ và gửi tại tài khoản số 3949.0.1052746 của Chị cục thi hành án dân sự huyện bảo Thắng tại kho bạc nhà nước huyện Bảo Thắng theo ủy nhiệm chi số 04 ngày 15/11/2017 để sung công quỹ nhà nước.

- Tuyên tịch thu 01 lọ nhựa màu trắng bên ngoài được dán mác có dòng chữ SDCHECK; 01 bao thuốc lá Thăng Long màu vàng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai để tiêu hủy.

Tiếp tục tạm giữ 01 điện thoại Iphone màu trắng thu giữ của Hoàng Ngọc N ; 01 điện thoại Viettel màu đen của Đặng Văn K để đảm bảo thi hành án.

Tuyên trả lại cho Hoàng Ngọc N 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Hoàng Ngọc N .

4. Về án phí: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo Hoàng Ngọc N, Đặng Văn K mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Khoản 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.”

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

393
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2017/HSST ngày 27/12/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:28/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Thắng - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về