TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 28/2017/DS-ST NGÀY 18/08/2017 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI SỨC KHOẺ
Ngày 18 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh LongAn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 31/2017/TLST–DS, ngày 15 tháng 02 năm2017 về “Tranh chấp bồi thường thiệt hại về sức khỏe” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2017/QĐXX-ST ngày 01 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị U, sinh năm 1987, cư trú tại: Ấp V, xã P, huyện C, tỉnh Long An, có mặt.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1954, cư trú tại: Ấp V, xã P, huyện C, tỉnh Long An, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 28/12/2016, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụán cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị U trình bày: Vào chiều ngày 24/10/2016 chị đang trên đường đi làm về thì mẹ chị gọi điện thoại cho chị báo tin giữa anh chị là Nguyễn Văn B và ông Nguyễn Văn D, con trai của ông D là Nguyễn Văn H xảy ra mâu thuẫn, xô xát nhau. Khi chị đến thấy anh B nằm dưới đất, tay che đầu, máu chảy ở đầu và cổ, ông D cầm cây tre đứng trước đầu của anh B, đánh anh B, còn anh H thì ngồi trên người anh B dùng tay đánh anh B. Nên chị lấy 01 đoạn sóng dừa đánh vào tay ông D nhằm can ngăn không cho ông D đánh anh Bước. Sau đó, ông D giựt đoạn sóng dừa và đánh vào người chị làm chị bị thương ở vai, ngực và xay xát ở tay. Chị phải điều trị thương tích ở Bệnh viện đa khoa khu vực C trong 07 ngày từ ngày 24/10/2016 đến ngày 31/10/2016 và ở nhà dưỡng thương 07 ngày từ ngày 01/11/2016 đến ngày 07/11/2016 trong đó ngày 04/11/2016 đến bệnh viện để tái khám. Trong thời gian 14 ngày nêu trên chị không được công ty trả lương. Tại phiên tòa, chị yêu cầu ông D phải bồi thường cho chị số tiền là 2.283.000 đồng (Hai triệu hai trăm tám mươi ba nghìnđồng) gồm 883.000 đồng chi phí khám chữa bệnh, tiền thuốc và 1.400.000 đồng tiền thunhập bị mất trong thời gian 07 ngày chị điều trị ở bệnh viện. Tại thời điểm chị bị ông D đánh, chị làm bảo vệ nội bộ tại công ty may mặc Đ, khu chợ B, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh, thu nhập mỗi tháng từ 6.300.000 đồng đến 6.500.000 đồng nhưng chị lấy mức thu nhập mỗi tháng 6.000.000 đồng, mỗi ngày là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) để yêu cầu bồi thường.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 23/6/2017, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn ông Nguyễn Văn D trình bày: Vào ngày 24/10/2016 giữa con trai ông là Nguyễn Văn H với anh Nguyễn Văn B xảy ra mâu thuẫn như thế nào thì ông không biết vì lúc đó ông không có ở nhà. Đến khoảng hơn 16 giờ chiều ngày 24/10/2016 khi ông về đến nhà thấy anh B từ trong nhà ông đi ra ngoài sân, đầu và mặt của anh B có chảy máu nên ông khuyên anh B về, còn con trai ông đang nhậu với bạn. Sau đó, mẹ của anh B và chị Nguyễn Thị U đến nhà ông. Lúc đó anh B quay trở lại vào nhà ông và tiếp tục xô xát với con trai ông. Còn chị U thì dùng đoạn sóng dừa đánh vào tay ông và đoạn sóng dừa rớt xuống đất nên ông mới lấy đoạn sóng dừa đó để đánh lại chị U. Ông chỉ can ngăn anh B và anh H chứ không có dùng đoạn tre đánh anh B như lời trình bày của chị U. Ông thừa nhận có dùng đoạn sóng dừa đánh chị U bị thương. Nay chị U khởi kiện yêu cầu ông bồi thường chi phí khám chữa bệnh, tiền thuốc và tiền thu nhập bị mất tổng cộng là 2.283.000 đồng (Hai triệu hai trăm tám mươi ba nghìn đồng), ông chỉ đồng ý bồi thường chi phí khám chữa bệnh, tiền thuốc 883.000 đồng (Tám trăm tám mươi ba nghìn đồng). Ông không đồng ý bồi thường thu nhập bị mất 1.400.000 đồng (Một triệu bốn trăm nghìn đồng) vì chị U vô cớ đến nhà ông và gây chuyện. Trước và tại thời điểm của ngày xảy ra xô xát, chị U có đi làm nhưng ông không biết làm gì, thu nhập bao nhiêu, tuy nhiên ông cũng thống nhất với mức thu nhập của chị U là 200.000 đồng/ngày.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Thẩm phán đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án như thẩm quyền thụ lý vụ án, quan hệ tranh chấp, tư cách pháp lý, tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải, việc tống đạt các văn bản tố tụng cho Viện kiểm sát và người tham gia tố tụng, thời hạn giao hồ sơ cho Viện kiểm sát; Hội đồng xét xử thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm; từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay đương sự thực hiện đúng quy định pháp luật.
Về việc giải quyết vụ án: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị U yêu cầu bị đơn ông Nguyễn Văn D bồi thường thiệt hại về sức khỏe với tổng số tiền 2.283.000 đồng, gồm chi phí khám chữa bệnh, tiền thuốc 883.000 đồng và tiền thu nhập bị mất 1.400.000 đồng là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Thẩm quyền của Tòa án và quan hệ pháp luật tranh chấp: Căn cứ vào nơi cư trú và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn, xét vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An và quan hệ pháp luật tranh chấp là tranh chấp bồi thường thiệt hại về sức khỏe theo quy định tại khoản 6 Điều 26,điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về áp dụng pháp luật nội dung: Sự việc tranh chấp bồi thường thiệt hại về sức khỏe giữa nguyên đơn chị Nguyễn Thị U với bị đơn ông Nguyễn Văn D xảy ra vào ngày 24/10/2016, vì vậy áp dụng Bộ luật dân sự năm 2005 để giải quyết vụ án.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị U yêu cầu bị đơn ông Nguyễn Văn D bồi thường thiệt hại về sức khỏe với tổng số tiền là 2.283.000 đồng (Hai triệu hai trăm tám mươi ba nghìn đồng), gồm 883.000 đồng (Tám trăm tám mươi ba nghìn đồng) chi phí khám chữa bệnh, tiền thuốc và 1.400.000 đồng (Một triệu bốn trăm nghìn đồng) tiền thu nhập bị mất, xét thấy:
Vào ngày 24/10/2016 giữa nguyên đơn chị Nguyễn Thị U với bị đơn ông Nguyễn Văn D xảy ra đánh nhau và có thiệt hại xảy ra. Theo chẩn đoán của Bệnh viện đa khoa khu vực C, chị Nguyễn Thị U bị chấn thương đầu, chấn thương phần mềm ngực, xây xát da. Ông D thừa nhận ông có lấy đoạn sóng dừa đánh chị U bị thương. Như vậy, có cơ sở kết luận, thương tích của chị U là do ông D gây ra. Do đó, ông D phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do mình gây ra cho chị U. Cụ thể:
Đối với thiệt hại mà chị U yêu cầu ông D bồi thường về chi phí khám chữa bệnh, tiền thuốc là 883.000 đồng (Tám trăm tám mươi ba nghìn đồng). Chị U có cung cấp chứng từ như bảng kê chi phí khám bệnh, chữa bệnh nội trú kèm theo hóa đơn bán hàngsố 0045301 ngày 31/10/2016 của Bệnh viện đa khoa khu vực C với số tiền là 819.300đồng (Tám trăm mười chín nghìn ba trăm đồng) và tiền thuốc theo sổ khám bệnh ngày04/11/2016 với số tiền là 63.800 đồng (Sáu mươi ba nghìn tám trăm đồng) để chứng minh cho yêu cầu của chị U Bị đơn ông Nguyễn Văn D cũng đồng ý bồi thường 883.000đồng chi phí khám chữa bệnh, tiền thuốc cho chị U. Do đó, chị U yêu cầu ông D bồithường chi phí khám chữa bệnh, tiền thuốc với số tiền 883.000 đồng là có căn cứ.
Đối với thiệt hại mà chị U yêu cầu ông D yêu cầu bồi thường về thu nhập bị mất trong thời gian 07 ngày điều trị thương tích tại bệnh viện x 200.000 đồng/ngày, thành tiền1.400.000 đồng (Một triệu bốn trăm nghìn đồng). Xét thấy, theo Giấy ra viện ngày31/10/2016 của Bệnh viện đa khoa khu vực C thể hiện chị U vào viện lúc 20 giờ 7 phút ngày 24/10/2016, ra viện lúc 8 giờ 0 phút ngày 31/10/2016, điều này chứng minh chị Ucó nằm viện điều trị tại bệnh viện trong thời gian là 07 ngày và trong thời gian này côngty không trả lương cho chị U. Chị U làm bảo vệ nội bộ tại công ty may mặc Đ thu nhập trung bình mỗi tháng từ 6.300.000 đồng đến 6.500.000 đồng nhưng chị U lấy mức thu nhập mỗi ngày là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) để yêu cầu ông D bồi thường. Ông D cũng thừa nhận, trước và tại thời điểm của ngày xảy ra xô xát, chị U có đi làm mặc dù ông không biết thu nhập của chị U bao nhiêu nhưng ông cũng thống nhất với mức thu nhập của chị U là 200.000 đồng/ngày. Như vậy, có đủ cơ sở xác định chị U bị mất thu nhập thực tế trong thời gian 07 ngày để điều trị thương tích tại bệnh viện. Do đó, chị U yêu cầu ông D bồi thường thu nhập bị mất với số tiền 1.400.000 đồng là có căn cứ.
Từ những phân tích trên, căn cứ vào khoản 1 các Điều 604, 605, 606, 609 của Bộ luật dân sự năm 2005, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị NguyễnThị U đối với bị đơn ông Nguyễn Văn D, buộc ông D bồi thường cho chị U số tiền là 2.283.000 đồng (Hai triệu hai trăm tám mươi ba nghìn đồng) gồm chi phí khám chữa bệnh, tiền thuốc 883.000 đồng và tiền thu nhập bị mất 1.400.000 đồng.
[4] Án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị U được chấpnhận nên bị đơn ông Nguyễn Văn D phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Tuy nhiên bị đơn ông Nguyễn Văn D là người cao tuổi và có đơn đề nghị miễn án phí nên căn cứ theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Hội đồng xét xử xét miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm cho ông D.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ vào khoản 1 các Điều 604, 605, 606, 609 của Bộ luật dân sự năm 2005; Căn cứ vào Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015;
Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị U đối với bị đơn ông Nguyễn Văn D. Buộc ông Nguyễn Văn D bồi thường cho chị Nguyễn Thị U số tiền là 2.283.000 đồng (Hai triệu hai trăm tám mươi ba nghìn đồng) gồm 883.000 đồng (Tám trăm tám mươi ba nghìn đồng) chi phí khám chữa bệnh, tiền thuốc và 1.400.000 đồng (Một triệu bốn trăm nghìn đồng) tiền thu nhập bị mất.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong khoản tiền trên, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Về án phí: Bị đơn ông Nguyễn Văn D được miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án được thực hiện theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 28/2017/DS-ST ngày 18/08/2017 về tranh chấp bồi thường thiệt hại sức khỏe
Số hiệu: | 28/2017/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cần Giuộc - Long An |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 18/08/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về