Bản án 281/2021/HC-PT ngày 17/05/2021 về khiếu kiện quyết định hành chính và hành vi hành chính quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

 BẢN ÁN 281/2021/HC-PT NGÀY 17/05/2021 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH VÀ HÀNH VI HÀNH CHÍNH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI

Ngày 17 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 493/2019/TLPT-HC ngày 26 tháng 8 năm 2019 “Khiếu kiện quyết định hành chính và hành vi hành chính về quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai”.

Do Bản án hành chính sơ thẩm số 619/2019/HC-ST ngày 11 tháng 06 năm 2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo, kháng nghị.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1232/2021/QĐPT-HC ngày 22 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

Người khởi kiện: Ông Hoàng Gia N, sinh năm 1983 (có mặt) Địa chỉ: 30 Kim B, Phường 13,  Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngưi bị kiện:

1/ Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh Địa chỉ: An Dương Vương, Phường 8,  Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Xuân T – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh (Giấy ủy quyền số 11/UQ-UBND ngày 03/11/2020 của Ủy ban nhân dân Quận X) (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Hồ Hoàng Ph – Phó Trưởng Phòng Quản lý đô thị Quận X (có mặt)

2/ Chủ tịch Ủy ban nhân dân  Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh Địa chỉ: Phường 8,  Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Xuân T – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân  Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh (Giấy ủy quyền số 11/UQ-UBND ngày 03/11/2020 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận X) (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Hồ Hoàng P– Phó Trưởng Phòng Quản lý đô thị  Quận X (có mặt) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Hoàng Đức T, sinh năm 1940 (có mặt)

 2/ Ông Hoàng Gia P, sinh năm 1982 (có đơn xin xét xử vắng mặt)

3/ Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1989 (có đơn xin xét xử vắng mặt)

 4/ Ông Lê Ngọc H, sinh năm 1988 (có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: 30 Kim B, Phường 13,  Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người kháng cáo, kháng nghị: người khởi kiện – ông Hoàng Gia N và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại nội dung Đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết tại Tòa án, người khởi kiện ông Hoàng Gia N trình bày:

Ngày 16/5/2017 ông có đơn gửi Phòng Quản lý đô thị  Quận X đề nghị cung cấp thông tin quy hoạch căn nhà số 30 Kim B, Phường 13,  Quận X.

Ngày 31/5/2017, Phòng Quản lý đô thị  Quận X có Văn bản số 971/QLĐT- QH trả lời về quy hoạch lộ giới: Căn cứ Quyết định số 6982/QĐ-UB-QLĐT ngày 30/9/1995 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về quy định lộ giới các tuyến đường trên địa bàn  Quận X, lộ giới đường Bãi S giới hạn từ đường Ngô Nhân T đến đường Kim B là 16m, căn nhà số 30 Kim B, Phường 13,  Quận X nằm hoàn toàn trên lộ giới đường Bãi S.

Không đồng ý với nội dung Văn bản số 971/QLĐT-QH ngày 31/5/2017 của Phòng Quản lý đô thị  Quận X, ngày 05/6/2017 ông có đơn khiếu nại lần 1.

Ngày 25/7/2017, Chủ tịch Ủy ban nhân dân  Quận X có Văn bản số 913/UBND-QLĐT cho rằng Ủy ban nhân dân  Quận X đang lập đồ án quy hoạch và toàn bộ diện tích đất của gia đình ông nằm toàn bộ trên lộ giới.

Ông không đồng ý với Văn bản số 913/UBND-QLĐT ngày 25/7/2017, việc Chủ tịch Ủy ban nhân dân  Quận X ban hành Văn bản số 913/UBND-QLĐT ngày 25/7/2017 làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình, cụ thể vì những lý do sau:

Ngày 30/9/1995, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định số 6982/QĐ-UB-QLĐT ngày 30/9/1995 phê duyệt lộ giới thì căn nhà của gia đình ông tại đường Bãi S nằm hoàn toàn trong lộ giới.

Ngày 31/01/2008, Ủy ban nhân dân  Quận X có Quyết định số 703/QĐ- UBND điều chỉnh quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị tỷ lệ 1/2000 khu dân cư liên Phường 13,14,15  Quận X thì nhà của gia đình ông không còn trong quy hoạch lộ giới.

Căn cứ kèm theo trong Bản đồ chi tiết đồ án tỷ lệ 1/2000 của Quyết định số 703/QĐ-UBND ngày 31/01/2018 và căn cứ vào Văn bản số 2164/SQHKT- QHKV1 ngày 12/5/2017 của Sở Quy hoạch – kiến trúc thể hiện nhà ông không còn nằm trong lộ giới, phần lớn diện tích nằm trong khu dân cư hiện hữu.

Khi gia đình liên hệ Ủy ban nhân dân  Quận X yêu cầu cấp Giấy xác nhận quy hoạch thì Ủy ban nhân dân  Quận X phản hồi bằng Văn bản số 913/UBND- QLĐT ngày 25/7/2017 cho rằng Ủy ban nhân dân  Quận X đang lập đồ án quy hoạch và toàn bộ diện tích đất của nhà ông nằm toàn bộ trên lộ giới.

Do đó, ông giữ nguyên yêu cầu khởi kiện về hủy Văn bản số 913/UBND- QLĐT ngày 25/7/2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân  Quận X và buộc Ủy ban nhân dân  Quận X chấm dứt hành vi không thực hiện xác nhận quy hoạch sử dụng đất (trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H02769 ngày 14/9/2006 do Ủy ban nhân dân  Quận X cấp cho ông) theo Quyết định số 703/QĐ-UBND ngày 31/01/2008 của Ủy ban nhân dân  Quận X.

Người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân  Quận X và Ủy ban nhân dân  Quận X có văn bản trình bày:

Căn cứ Quyết định số 6982/QĐ-UB-QLĐT ngày 30/9/1995 của Ủy ban nhân dân Thành phố về quy định lộ giới các tuyến đường trên địa bàn  Quận X, lộ giới đường Bãi S tính từ tim đường về phía Nam giới hạn từ đường Ngô Nhân T đến đường Kim B là 16m. Căn cứ Quyết định trên, từ năm 1995 đến nay Ủy ban nhân dân  Quận X đã quản lý ranh quy hoạch và cấp giấy chứng nhận Quyền sở hữu cho toàn bộ các căn nhà trên tuyến đường này theo Quyết định 6982/QĐ- UB-QLĐT. Trên cơ sở đó, Ủy ban nhân dân  Quận X đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 159932 ngày 14/9/2006 cho Ông Hoàng Gia N là chủ sở hữu đối với căn nhà 30 Kim B Phường 13,  Quận X, thể hiện nhà nằm hoàn toàn trên lộ giới đường Bãi S.

Năm 2008, Ủy ban nhân dân  Quận X đã phê duyệt Đồ án quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị tỷ lệ 1/2000 khu dân cư liên Phường 13, 14 và 15  Quận X tại Quyết định số 703/QĐ-UBND ngày 31/01/2008, theo đó việc xác định ranh lộ giới đường Bãi S có sự khác biệt giữa Quyết định số 703/QĐ-UBND ngày 31/01/2008 của Ủy ban nhân dân  Quận X và Quyết định số 6982/QĐ-UB-QLĐT ngày 30/9/1995 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Hiện nay, để đảm bảo tính thống nhất và ổn định trong công tác quy hoạch cho toàn bộ các căn nhà trên tuyến đường Kim B, Ủy ban nhân dân  Quận X đang thực hiện điều chỉnh ranh quy hoạch lộ giới đường Bãi S theo đúng Quyết định số 6982/QĐ-UB-QLĐT ngày 30/9/1995 của Ủy ban nhân dân Thành phố về quy định lộ giới các tuyến đường trên địa bàn  Quận X, việc điều chỉnh được thể hiện trong Đồ án Quy hoạch phân khu (điều chỉnh quy hoạch chi tiết 1/2000), đang trình Sở Quy hoạch Kiến trúc thẩm định theo quy định.

Đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Gia N.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hoàng Đức T, ông Hoàng Gia P, bà Nguyễn Thị M, ông Lê Ngọc H trình bày:

Thống nhất với yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Gia N, đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của ông N.

Tại Bản án số 619/2019/HC-ST ngày 11 tháng 6 năm 2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ khoản 1, khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 3; khoản 1 Điều 30; khoản 4 Điều 32; điểm a khoản 2 Điều 116; Điều 146, khoản 1 Điều 158, điểm a khoản 2 Điều 193, Điều 206 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015;

Căn cứ khoản 1 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Bác yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Gia N về hủy Văn bản số 913/UBND-QLĐT ngày 25/7/2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân  Quận X và buộc Ủy ban nhân dân  Quận X chấm dứt hành vi không thực hiện xác nhận quy hoạch sử dụng đất (trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H02769 ngày 14/9/2006 do Ủy ban nhân dân  Quận X cấp cho ông) theo Quyết định số 703/QĐ-UBND ngày 31/01/2008 của Ủy ban nhân dân  Quận X.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 18/6/2019, người khởi kiện ông Hoàng Gia N kháng cáo đề nghị sửa Bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông.

Ngày 25/6/2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông N.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện ông Hoàng Gia N vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận nội dung đơn khởi kiện của ông N, yêu cầu hủy Văn bản số 913/UBND-QLĐT ngày 25/7/2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân  Quận X và buộc Ủy ban nhân dân  Quận X chấm dứt hành vi không thực hiện xác nhận quy hoạch sử dụng đất (trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H02769 ngày 14/9/2006 do Ủy ban nhân dân  Quận X cấp cho ông) theo Quyết định số 703/QĐ-UBND ngày 31/01/2008 của Ủy ban nhân dân  Quận X. Với các lý do: Phần lớn diện tích nhà 30 Kim B nằm trong khu dân cư hiện hữu. Quyết định số 6982/QĐ-UB-QLĐT ngày 30/9/1995 của Ủy ban nhân dân Thành phố về quy định lộ giới các tuyến đường trên địa bàn  Quận X, lộ giới đường Bãi S tính từ tim đường về phía Nam giới hạn từ đường Ngô Nhân T đến đường Kim B là 16m. Phần diện tích nhà 30 Kim B không vướng vào quy hoạch lộ giới. Ủy ban nhân dân  Quận X cho rằng Quyết định số 703/QĐ-UBND ngày 31/01/2008 khu phù hợp với Quyết định 6982/QĐ- UB-QLĐT ngày 30/9/1995 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nên đã trình Sở Quy hoạch kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh thẩm định điều chỉnh. Tuy đến nay vẫn chưa phê duyệt nhưng Ủy ban nhân dân  Quận X vẫn không xác nhận quy hoạch sử dụng đất theo Quyết định số 703/QĐ-UBND ngày 31/01/2008 làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình ông; Văn bản số 2164/SQHKT-QHKV1 trả lời: Ý kiến về chức năng quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị tỷ lệ 1/2000 khu dân cư liên Phường 13,14,15  Quận X được Ủy ban nhân dân  Quận X phê duyệt tại Quyết định số 703/QĐ-UBND ngày 31/01/2008, phần lớn diện tích khu đất (30 Kim B) thuộc quy hoạch đất dân cư hiện hữu. Phần diện tích còn lại thuộc quy hoạch lộ giới (Vạt góc giao lộ đường Kim B và đường Bãi S) như vậy nhà của ông chỉ vướng quy hoạch vạt góc này, không phải toàn bộ căn nhà nằm trên lộ giới như xác nhận của Ủy ban nhân dân  Quận X; Theo chứng chỉ quy hoạch số 386/CCQH - UNBD ngày 17/8/2018 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân  Quận X xác định: Quy hoạch lộ giới đường Bãi S là 16m. Theo nội dung của chứng chỉ này thì căn nhà của ông không năm trên lộ giới đường Bãi S; Quyết định số 703/QĐ-UBND ngày 31/01/2018 chưa bị hủy bỏ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hoàng Đức T thống nhất với lời trình bày của ông N.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh rút toàn bộ Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện ông Hồ Hoàng P trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm, không chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện.

Ông Nguyễn Xuân T là người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện Ủy ban nhân dân  Quận X và Chủ tịch Ủy ban nhân dân  Quận X có đơn xin xét xử vắng mặt.

Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Hoàng Gia P, bà Nguyễn Thị M, ông Lê Ngọc H có đơn xin xét xử vắng mặt Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:

Về tố tụng, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Luật tố tụng hành chính về phiên tòa phúc thẩm. Những người người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Luật tố tụng hành chính.

Về nội dung, tại phiên tòa phúc thẩm đại diện Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm c khoản 1 Điều 229 Luật tố tụng hành chính đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đối với kháng cáo của người khởi kiện ông Hoàng Gia N kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, qua xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có cơ sở xác định Văn bản số 913/UBND- QLĐT ngày 25/7/2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân  Quận X là đúng quy định pháp luật. Người khởi kiện kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận chấp nhận nội dung đơn khởi kiện của ông N, yêu cầu hủy Văn bản số 913/UBND- QLĐT ngày 25/7/2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân  Quận X và buộc Ủy ban nhân dân  Quận X chấm dứt hành vi không thực hiện xác nhận quy hoạch sử dụng đất (trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H02769 ngày 14/9/2006 do Ủy ban nhân dân  Quận X cấp cho ông) theo Quyết định số 703/QĐ-UBND ngày 31/01/2008 của Ủy ban nhân dân  Quận X là không có cơ sở. Từ những phân tích trên, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính năm 2015 không chấp nhận kháng cáo của ông Hoàng Gia N, giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 619/2019/HC-ST ngày 11 tháng 06 năm 2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Hội đồng xét xử căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa, có đủ cơ sở để kết luận: Toàn bộ diễn biến vụ án như phần tóm tắt nội dung đã được viện dẫn ở trên, xét kháng cáo của người khởi kiện ông Hoàng Gia N, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ, ý kiến của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên như sau:

[1] Về tố tụng:

Tại phiên toà phúc thẩm, ông Nguyễn Xuân T là người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện Ủy ban nhân dân  Quận X và Chủ tịch Ủy ban nhân dân  Quận X, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Hoàng Gia P, bà Nguyễn Thị M, ông Lê Ngọc H có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 255 Luật tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự này theo quy định.

- Về đối tượng khởi kiện:

Người khởi kiện ông Hoàng Gia N khởi kiện yêu cầu hủy Văn bản số 913/UBND-QLĐT ngày 25/7/2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân  Quận X và buộc Ủy ban nhân dân  Quận X chấm dứt hành vi không thực hiện xác nhận quy hoạch sử dụng đất (trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H02769 ngày 14/9/2006 do Ủy ban nhân dân  Quận X cấp cho ông) theo Quyết định số 703/QĐ-UBND ngày 31/01/2008 của Ủy ban nhân dân  Quận X, là quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật tố tụng hành chính 2015.

- Về thời hiệu khởi kiện: Ngày 25/7/2017, Chủ tịch Ủy ban nhân dân  Quận X ban hành Văn bản số 913/UBND-QLĐT. Ngày 24/4/2018, ông Hoàng Gia N nộp đơn khởi kiện yêu cầu hủy Văn bản số 913/UBND-QLĐT nêu trên và buộc Ủy ban nhân dân  Quận X chấm dứt hành vi không thực hiện xác nhận quy hoạch sử dụng đất là còn trong thời hiệu khởi kiện theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính 2015.

- Về thẩm quyền giải quyết: Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính 2015.

- Về thời hạn kháng cáo, kháng nghị: Ngày 18/6/2019, người khởi kiện ông Hoàng Gia N kháng cáo toàn bộ Bản án hành chính sơ thẩm số 619/2019/HC-ST ngày 11/6/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, là còn trong thời hạn theo quy định tại khoản 1 Điều 206 Luật tố tụng hành chính 2015.

Ngày 25/6/2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị toàn bộ Bản án hành chính sơ thẩm số 619/2019/HC-ST ngày 11/6/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, là còn trong thời hạn theo quy định tại Điều 213 Luật tố tụng hành chính 2015.

[2] Về nội dung:

[2.1] Xét tính hợp pháp của Văn bản số 913/UBND-QLĐT ngày 25/7/2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân  Quận X [2.1.1] Về trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành:

Ngày 16/5/2017, ông Hoàng Gia N có đơn gửi Phòng Quản lý đô thị  Quận X đề nghị cung cấp thông tin quy hoạch căn nhà số 30 Kim B, Phường 13,  Quận X.

Ngày 31/5/2017, Phòng Quản lý đô thị  Quận X có Văn bản số 971/QLĐT- QH trả lời về quy hoạch lộ giới: Căn cứ Quyết định số 6982/QĐ-UB-QLĐT ngày 30/9/1995 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về quy định lộ giới các tuyến đường trên địa bàn  Quận X, lộ giới đường Bãi S giới hạn từ đường Ngô Nhân T đến đường Kim B là 16m, căn nhà số 30 Kim B, Phường 13,  Quận X nằm hoàn toàn trên lộ giới đường Bãi S.

Không đồng ý với nội dung Văn bản số 971/QLĐT-QH ngày 31/5/2017 của Phòng Quản lý đô thị  Quận X, ngày 05/6/2017 ông N có đơn khiếu nại.

Ngày 25/7/2017, Ủy ban nhân dân  Quận X có Văn bản số 913/UBND- QLĐT cho rằng Ủy ban nhân dân  Quận X đang lập đồ án quy hoạch và toàn bộ diện tích đất của gia đình ông nằm toàn bộ trên lộ giới.

Về hình thức: Văn bản số 913/UBND-QLĐT nêu trên là quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng được ban hành dưới hình thức văn bản trả lời đơn kiến nghị là chưa phù hợp theo quy định tại Điều 31 Luật khiếu nại Thông tư số 01/2011/TT-BNV ngày 19/01/2011 của Bộ Nội vụ.

Về thẩm quyền: Căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 18 Luật Khiếu nại thì thẩm quyền giải quyết khiếu nại thuộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân  Quận X, nhưng tại Văn bản 913/UBND-QLĐT ngày 25/7/2017, thì Ủy ban nhân dân  Quận X lại trả lời khiếu nại của ông N. Tuy nhiên, tại phần ký tên lại ghi ký thay Chủ tịch, Phó Chủ tịch ký tên đóng dấu là đúng thẩm quyền nhưng không đúng về hình thức của quyết định.

[2.1.2] Về nội dung của Văn bản số 913/UBND-QLĐT:

Ngày 30/9/1995, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định số 6982/QĐ-UB-QLĐT phê duyệt lộ giới thì căn nhà của gia đình ông N tại đường Bãi S nằm hoàn toàn trong lộ giới.

Ngày 31/01/2018, Ủy ban nhân dân  Quận X có Quyết định số 703/QĐ- UBND điều chỉnh quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị tỷ lệ 1/2000 khu dân cư liên Phường 13,14,15  Quận X thì nhà của gia đình ông N không còn trong quy hoạch lộ giới.

Quyết định 703/QĐ-UBND ngày 31/01/2008 và Quyết định số 6982/QĐ- UB-QLĐT ngày 30/9/1995 có sự hoàn toàn khác biệt trong việc xác định vị trí căn nhà của ông N theo quy hoạch lộ giới của đường Bãi S.

Xét Văn bản số 913/UBND-QLĐT vừa căn cứ Quyết định 703/QĐ-UBND ngày 31/01/2008, lại vừa căn cứ Quyết định số 6982/QĐ-UBND ngày 30/9/1995 để giải quyết khiếu nại của ông N là có sự mâu thuẫn.

Mặt khác, tại Quyết định số 703/QĐ-UBND ngày 31/01/2008 của Ủy ban nhân dân  Quận X đã căn cứ vào Quyết định số 6786/QĐ-UB-QLĐT ngày 18/12/1998 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về phê duyệt đồ án điều chỉnh Quy hoạch chung  Quận X; căn cứ Văn bản số 2242/QHKT-QH ngày 05/7/2004 và Văn bản số 70/KQTĐ-SQHKT ngày 04/01/2008 của Sở Quy hoạch kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh về đồ án quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị tỷ lệ 1/2000 Khu liên phường 13, 14, 15  Quận X. Như vậy, quy hoạch chi tiết Khu liên phường 13, 14, 15  Quận X có sự thay đổi, điều chỉnh đã được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định và được Sở Quy hoạch kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh kiểm tra, thẩm định đúng theo quy trình.

Ngoài ra, căn cứ Khoản 3 Điều 83 Luật ban hành văn bản năm 2008 quy định về cách Áp dụng văn bản quy phạm pháp luật:

“3. Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành mà có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản được ban hành sau”.

Do đó, ông Hoàng Gia N khởi kiện yêu cầu hủy Văn bản số 913/UBND- QLĐT ngày 25/7/2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân  Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ để chấp nhận.

[2.2] Đối với yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Gia N buộc Ủy ban nhân dân  Quận X chấm dứt hành vi không thực hiện xác nhận quy hoạch sử dụng đất (trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H02769 ngày 14/9/2006 do Ủy ban nhân dân  Quận X cấp cho ông) theo Quyết định số 703/QĐ-UBND ngày 31/01/2008 của Ủy ban nhân dân  Quận X.

[2.2.1] Về thẩm quyền xác nhận: Hành vi hành chính xác nhận quy hoạch sử dụng đất thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân  Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại Điều 40 Luật Đất đai năm 2013.

[2.2.2] Về nội dung xác nhận: Như đã phân tích ở trên, Quyết định số 703/QĐ-UBND ngày 31/01/2008 của Ủy ban nhân dân  Quận X đã căn cứ vào Quyết định số 6786/QĐ-UB-QLĐT ngày 18/12/1998 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về phê duyệt đồ án điều chỉnh Quy hoạch chung  Quận X và các văn bản thẩm định quy hoạch theo quy định nên có giá trị pháp lý hiện hành. Do đó, ông Hoàng Gia N khởi kiện buộc Ủy ban nhân dân  Quận X chấm dứt hành vi không thực hiện xác nhận quy hoạch sử dụng đất (trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H02769 ngày 14/9/2006 do Ủy ban nhân dân  Quận X cấp cho ông) theo Quyết định số 703/QĐ- UBND ngày 31/01/2008 của Ủy ban nhân dân  Quận X là có cơ sở để chấp nhận.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã rút toàn bộ Kháng nghị số 328/QĐ-VKS-HC ngày 25/6/2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 241 Luật tố tụng hành chính năm 2015 Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Từ những căn cứ trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét và chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện ông Hoàng Gia N; sửa bản án hành chính sơ thẩm.

[3] Về án phí:

- Về án phí hành chính sơ thẩm: Người khởi kiện ông Hoàng Gia N không phải chịu do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân  Quận X; Ủy ban nhân dân  Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh phải chịu án phí hành chính sơ thẩm theo quy định.

- Về án phí hành chính phúc thẩm: Người khởi kiện ông Hoàng Gia N không phải chịu do yêu cầu kháng cáo được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 229, khoản 2 Điều 241 Luật tố tụng hành chính năm 2015;

Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh;

Chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện ông Hoàng Gia N; Sửa bản án hành chính sơ thẩm.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Gia N: Hủy Văn bản số 913/UBND-QLĐT ngày 25/7/2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân  Quận X và buộc Ủy ban nhân dân  Quận X chấm dứt hành vi không thực hiện xác nhận quy hoạch sử dụng đất (trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H02769 ngày 14/9/2006 do Ủy ban nhân dân  Quận X cấp cho ông N) theo Quyết định số 703/QĐ-UBND ngày 31/01/2008 của Ủy ban nhân dân  Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. - Về án phí hành chính sơ thẩm: Người khởi kiện ông Hoàng Gia N không phải chịu. Hoàn lại cho ông N số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0049705 ngày 17/9/2018 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân  Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh; Ủy ban nhân dân  Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hành chính sơ thẩm.

- Về án phí hành chính phúc thẩm: Người khởi kiện ông Hoàng Gia N không phải chịu. Hoàn lại cho ông N số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0025967 ngày 25/6/2019 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị phát sinh hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

522
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 281/2021/HC-PT ngày 17/05/2021 về khiếu kiện quyết định hành chính và hành vi hành chính quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai

Số hiệu:281/2021/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 17/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về