Bản án 281/2019/HSST ngày 20/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 281/2019/HSST NGÀY 20/06/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 6 năm 2019 tại hội trường UBND phường Quang Trung, Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên mở phiên tòa lưu động xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 294/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 5 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 320/2019/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 5 năm 2019 đối với:

1) Bị cáo: Đào Văn Tr, sinh ngày 01 tháng 7 năm 1962 ĐKHKTT: Tổ 34, phường QT, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên. Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa 7/10. Con ông Đào Mạnh H (Đã chết), con bà Vũ Thị V, sinh năm 1926; gia đình có 05 anh chị em, bị cáo là con thứ 05; Có vợ Nguyễn Thị L, sinh năm 1957 (Đã ly hôn), hiện chung sống như vợ chồng với chị Nguyễn Thị Hồng Th, sinh năm 1975. Có 03 con, con lớn sinh năm 1989, con thứ hai sinh năm 1998, con thứ ba sinh năm 2000.

- Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ tạm giam từ ngày 07/3/2019 đến nay.

2). Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị Hồng Th, sinh năm 1975 (Có mặt tại phiên tòa )

Địa chỉ: Thôn H, xã ML, huyện ĐH, tỉnh Thái Bình

3) Người chứng kiến:

- Ông Võ Ngọc C, sinh năm 1947

Địa chỉ: Tổ 24, phường PĐP, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên.

- Anh Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1988

Địa chỉ: Tổ 8, phường PĐP, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên.

(Đều vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 30 phút ngày 7/3/2019 tổ công tác của Công an phường Phan Đình Phùng, thành phố Thái Nguyên làm nhiệm vụ tuần tra tại khu vực tổ 24, phường Phan Đình Phùng, thành phố Thái Nguyên phát hiện 01 người đàn ông đang dừng xe mô tô BKS 29V8 - 8422 có biểu hiện liên quan đến ma tuý, tổ công tác tiến hành kiểm tra. Người đàn ông tự khai tên là Đào Văn Tr. Qua kiểm tra phát hiện tại vị trí trên mặt đồng hồ công tơ mét của xe mô tô do Tr điều khiển có 02 gói (trong đó có 01 gói giấy bạc màu trắng và 01 gói giấy bạc màu vàng) bên trong các gói đều chứa chất bột màu trắng (Tr khai là Heroine). Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng và lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang. Ngoài ra còn thu giữ của Tr 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7, 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Hon da Wave màu đen BKS 29V8-8422, 01 đăng ký xe mô tô số 130805, 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Đào Văn Tr và 400.000 đồng.

Cân số chất bột màu trắng thu giữ của Đào Văn Tr ngày 7/3/2019, có khối lượng 0,155 gam, lấy mẫu gửi giám định ký hiệu A1.

Tại bản kết luận giám định số 523/KL-PC09 ngày 14/3/2019 của phòng Kỹ Thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận:

Chất bột màu trắng trong mẫu A1 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,155 gam.

Tại cơ quan điều tra Đào Văn Tr khai nhận: Bản thân Tr là đối tượng nghiện chất ma túy. Khoảng 10 giờ 20 phút ngày 7/3/2019 Tr điều khiển xe mô tô BKS 29V8-8422 mang theo 02 gói Heroine (trong đó 01 gói được gói bằng giấy bạc màu trắng và 01 gói được gói bằng giấy bạc màu vàng) ra khu vực ngã 3 Bắc Nam, thuộc tổ 24 phường Phan Đình Phùng, thành phố Thái Nguyên để bán cho các đối tượng nghiện khác kiếm lời. Khi đến nơi, Tr để 02 gói Heroine trên mặt đồng hồ công tơ mét của xe mô tô do Tr điều khiển nhưng chưa kịp bán thì bị tổ công tác Công an phường Phan Đình Phùng, thành phố Thái Nguyên phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng như đã nêu trên. Về nguồn gốc số Heroine trên theo Tr khai mua của 01 người phụ nữ không quen biết ở khu vực đường sắt Bắc Nam sáng ngày 7/3/2019, với giá 200.000 đồng.

Lời khai nhận của Đào Văn Tr phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người có quyền lời nghĩa vụ liên quan, lời khai của người chứng kiến,vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định.

Vật chứng của vụ án gồm:

- 01 bì niêm phong ký hiệu A1.

- 01 chứng minh nhân dân mang tên Đào Văn Tr; 01 đăng ký xe mô tô 130805; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7, số Imei 358860032198222 và 400.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam.

- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen, BKS 29V8-8422, số khung RLHHC09046Y211685, số máy HC09E6211711. Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô trên là tài sản chung của Tr và vợ là chị Nguyễn Thị Hồng Th, sinh năm 1979, nơi cư trú: Thôn H, xã ML, huyện ĐH, tỉnh Thái Bình.

Tại bản cáo trạng số 306/CT-VKSTPTN ngày 24/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đã truy tố Đào Văn Tr về tội "Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã mô tả.

Trong phần luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên tóm tắt nội dung vụ án, phân tích, đánh giá chứng cứ, từ đó đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đào Văn Tr phạm tội ”Mua bán trái phép chất ma túy”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt Đào Văn Tr từ 30 đến 36 tháng tù giam.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.

- Vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu A1.

+ Hoàn trả cho Đào Văn Tr 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Đào Văn Tr.

 + Tạm giữ để đảm bảo thi hành án 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7, số Imei 358860082198222 và 400.000đ tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam thu giữ của Đào Văn Tr.

+ Hoàn trả cho chị Nguyễn Thị Hồng Th 01 đăng ký xe mô tô; 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Wave màu đen, BKS 29V8-8422, số khung RLHHC09046Y211685, số máy HC09E6211711. Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô trên là tài sản chung của Tr và vợ là chị Nguyễn Thị Hồng Th.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án buộc bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí HSST vào ngân sách nhà nước.

Trong phần tranh luận, bị cáo không tranh luận thừa nhận việc truy tố là không oan, xét xử là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nói lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa, trên cở sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người tham gia tố tụng khác Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, các quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2]Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã mô tả, bị cáo xác định cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố là đúng người, đúng tội. Xét thấy lời nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là tự nguyện, khách quan, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như biên bản khám xét, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 7/3/2019 tại tổ 24, phường Phan Đình Phùng, thành phố Thái Nguyên, Đào Văn Tr đã có hành vi tàng trữ 0,155 gam Heroine để sử dụng và bán lẻ cho các đối tượng nghiện khác kiếm lời, nhưng chưa kịp bán thì bị tổ công tác của Công an phường Phan Đình Phùng, thành phố Thái Nguyên phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

[3] Đánh giá của Hội đồng xét xử: Bị cáo đã biết ma túy là chất cấm, được Nhà nước quản lý nhưng vẫn mua ma túy về bán kiếm lời bất chính, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm nghiêm trọng đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, làm gia tăng tội phạm và tệ nạn xã hội, gây mất an toàn trật tự tại địa phương. Do vậy hành vi của bị cáo đã đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Ngoài ra, hành vi của bị cáo còn là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác gây nhức nhối trong xã hội. Nên cần có hình phạt tương xứng với tội trạng của bị cáo gây ra để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy: Đào Văn Tr chưa có tiền án tiền sự, nhưng bản thân là đối tượng nghiện ma túy, lười lao động, hám lời bất chính nên không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân. Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, xác định lời khai tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là đúng, không quanh co, đổ lỗi cho người khác và xác định việc bị cáo phạm tội là do ý thức chủ quan của bị cáo, vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, nên Hội đồng xét xử cân nhắc cho bị cáo hưởng mức án phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa là phù hợp.

Nguồn gốc số ma tuý thu giữ, Đào Văn Tr khai mua của một người phụ nữ không quen biết ở khu vực đường sắt Bắc Nam, thuộc phường PĐP, thành phố TN, quá trình điều tra không xác định được nhân thân lai lịch của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở điều tra làm rõ xử lý.

Đối với chị Nguyễn Thị Hồng Th là đồng sở hữu chiếc xe mô tô BKS 29V8-8422 cùng với Tr, nhưng chị Th không biết Tr sử dụng chiếc xe mô tô trên để đi mua và bán ma túy. Vì vậy, cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Thái Nguyên không sử lý đối với chị Th.

[4] Vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu A1.

+ Trả cho Đào Văn Tr 01 chứng minh nhân dân mang tên Đào Văn Tr.

+ Trả cho chị Nguyễn Thị Hồng Th 01 đăng ký xe mô tô; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen, BKS 29V8-8422, số khung RLHHC09046Y211685, số máy HC09E6211711. Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô trên là tài sản chung của Tr và vợ là chị Nguyễn Thị Hồng Th, chị Th cũng không biết Tr sử dụng xe máy vào việc mua bán ma túy.

+ Tạm giữ để đảm bảo thi hành án 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7, số Imei 358860082198222 và 400.000đ tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam thu giữ của Đào Văn Tr vì xác định Tr không sử dụng chiếc điện thoại vào việc giao dịch mua bán ma túy và số tiền 400.000đ cũng không phải là tiền Tr có được do mua bán ma túy.

[5] Về hình phạt bổ sung và án phí Về hình phạt bổ sung: Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nhằm mục đích thu lời bất chính, tuy nhiên do bị cáo là đối tượng nghiện lâu năm, không có thu nhập ổn định do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[6] Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 251; Điểm s, khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Đào Văn Tr phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy"

Xử phạt: Bị cáo Đào Văn Tr 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/3/2019;

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự quyết định tạm giam bị cáo Đào Văn Tr 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự ; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu A1(Bên trong có chứa ma túy).

+ Trả cho Đào Văn Tr 01 chứng minh nhân dân mang tên Đào Văn Tr.

+ Tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho Đào Văn Tr 01 điện thoại di động đã qua sử dụng, vỏ đã cũ, nhãn hiệu Samsung J7, số Imei 358860082198222 và 400.000đ tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam (Ủy nhiệm chi số 47 ngày 24/5/2019 chuyển số tiền 400.000đ).

+ Trả cho chị Nguyễn Thị Hồng Th 01 đăng ký xe mô tô 130805; 01 chiếc xe mô tô đã qua sử dụng nhãn hiệu Honda Wave BKS 29V8-8422, số khung RLHHC09046Y211685, số máy HC09E6211711 thân vỏ đã cũ, dung tích xi lanh 100; loại xe hai bánh 50-175cm3.

Hiện số vật chứng trên đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý, theo biên bản giao nhận vật chứng số 348 ngày 06/6/2019.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Đào Văn Tr phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 281/2019/HSST ngày 20/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:281/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về