Bản án 279/2020/HS-ST ngày 29/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

 BẢN ÁN 279/2020/HS-ST NGÀY 29/12/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Trong ngày 29 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận H, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 284/2020/TLST-HS ngày 27 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 291/2020/QĐXXST-HS ngày14 tháng 12 năm 2020 đồi với bị cáo:

Trần S, sinh ngày 27 tháng 10 năm 1975; tại: Bắc Giang; Nơi đăng ký HKTT: Tổ dân phố D, phường L, thành phố B, tỉnh Bắc Giang; Chỗ ở: Số 37, ngõ H, phường C, quận Đ, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do;Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc : Kinh; Giới tính : Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần T ( đã chết ) và bà Trần Thị N ; Vợ con: Chưa có;

Tiền án:

1.Bản án số 09/HSST ngày 19/01/1999 của TAND tỉnh B và bản án số 1433 ngày 29/7/1999 của Tòa phúc thẩm tại Hà Nội TAND tối cao xử phạt 07 năm tù, về tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” (chưa nộp án phí và hình phạt bổ sung).

2.Bản án số 117/HSST ngày 18/6/1999 của Tòa án nhân dân tỉnh B và bản án số 2601 ngày 22/12/1999 của Tòa phúc thẩm TAND tối cao xử phạt 30 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản của công dân”, tổng hợp hình phạt 07 năm tù về tội Tổ chức xử dụng trái phép chất ma túy của bản án số 1433 ngày 29/7/1999 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao tại Hà Nội, buộc phải chấp hành hình phạt chung là 09 năm 06 tháng tù. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/12/2007, chưa xóa án tích ( chưa nộp án phí và tiền phạt bổ sung ).

3. Bản án số 353/2012/HSST ngày 21/11/2012 của TAND quận B, Hà Nội, xử phạt 09 năm tù, về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt ngày 09/4/2019, chưa được xóa án tích.

Tiền sự: Không.

* Nhân thân:

1. Bản án số 64/1992/HSST ngày 14/12/1992 của TAND thị xã B, tỉnh H (nay là thành phố B, tỉnh B) xử phạt 04 tháng tù, về tội: “Cưỡng đoạt tài sản của công dân” (được trừ thời hạn tạm giam từ 23/6/1992 đến 23/10/1992).

2. Bản án số 38 ngày 10/6/1993 của TAND thị xã B, tỉnh H (nay là thành phố B, tỉnh B) xử phạt 12 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản của công dân” (không rõ trị giá tài sản). Chấp hành xong hình phạt ngày 05/02/1994, đã được xóa án tích.

3. Bản án số 159/HSST ngày 16/9/1994 của TAND tỉnh H (nay là tỉnh Bvà bản án số 371 ngày 27/3/1995 của Tòa phúc thẩm TAND tối cao xử phạt 02 năm tù, về tội: “Cưỡng đoạt tài sản của công dân” và 02 năm tù, về tội: “Trộm cắp tài sản của công dân”. Tổng hợp hình phạt của 2 tội là 04 năm tù. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/4/1998, đã được xóa án tích.

4. Bản án số 27/2009/HSST ngày 27/02/2009 của TAND thành phố B, tỉnh B xử phạt 06 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản” (trị giá tài sản 560.000 đồng). Chấp hành xong hình phạt ngày 26/4/2009, đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/9/2020 và hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 Công an thành phố H. Có mặt.

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Chị Doãn Thị T, sinh năm 1965 Địa chỉ: Số 2 đường P, phường C, quận Đ, thành phố Hà Nội. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 06/9/2020, S đi xe bus từ số 37, ngõ Hàng Bột, phường Cát Linh đến khu vực gần tòa nhà Hồ Gươm Plaza, phường Mộ Lao, quận Hà Đông để tìm mua ma túy về sử dụng, có ai hỏi mua thì bán kiếm lời. Đến nơi, S xuống xe đi bộ và gặp một người đàn ông không quen biết trông giống người nghiện, S hỏi người này: “Có hàng bán không” (“hàng” có nghĩa là ma túy heroin), người đàn ông bảo: “Mua bao nhiêu” thì S nói: “Bán cho bảy triệu đồng”, đồng thời S lấy trong người ra 7.000.000 đồng đưa cho người đàn ông và được người này đưa lại cho 02 gói bên ngoài được quấn băng dính màu đen, bên trong chứa chất bột màu trắng (ma túy heroin). Mua xong, S cầm 02 gói ma túy rồi tiếp tục đi xe bus về nhà. Về đến nhà, S lấy một phần ma túy vừa mua được ra sử dụng, số còn lại S quấn băng dính màu đen cất trong túi quần của mình và treo trong phòng ngủ.

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 09/9/2020, S rủ Doãn Thị T- SN: 1965, HKTT: số 2 Phan Phù Tiên, phường Cát Linh, quận Đống Đa, hiện ở cùng địa chỉ với Trần S (là người chung sống như vợ chồng với S) đi xuống khu vực Hà Đông. Khi đi, S mặc chiếc quần bên trong có 02 gói heroin mua ngày 06/9/2020 rồi điều khiển xe máy BKS: 29E2-576.10 (xe của T) chở T ngồi sau. Đến khu vực đất làng nghề phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, thì S dừng xe tại vỉa hè rồi bảo T vào quán nước chờ, còn S đứng đợi xem có ai hỏi mua ma túy thì bán lại với giá 7.700.000 đồng. Khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, khi S và T đang ngồi ở quán nước thì bị tổ công tác Công an phường Biên Giang, quận Hà Đông đang làm nhiệm vụ thấy nghi vấn phạm tội ma túy nên đã yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra phát hiện thu giữ tại túi quần sau bên trái của Trần S 02 gói chất bột màu trắng, bên ngoài được quấn băng dính màu đen (S khai là ma túy heroin của S đem đi để tìm người bán kiếm lời). Công an phường Biên Giang đã lập biên bản bắt quả tang đối với Trần S, niêm phong vật chứng (02 gói chất bột), đồng thời tạm giữ chiếc xe máy Honda Lead màu xanh, BKS: 29E2-576.10, số khung RLHJF7937K2, số máy JF89E0045880, thu giữ 02 điện thoại di động của S, trong đó: 01 điện thoại Oppo màu đen, số sim: 0968536439 và 0339223359; 01 điện thoại Viettel màu vàng, số sim 0585015786 (bút lục 30 đến 37). Sau được bàn giao cho Cơ quan CSĐT Công an quận Hà Đông để điều tra xử lý.

Ngày 10/9/2020, CQĐT tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trần S tại số 37, ngõ Hàng Bột, phường Cát Linh, quận Đống Đa, Hà Nội, không phát hiện, thu giữ được gì.

Ngày 09/9/2020, Cơ quan điều tra quyết định trưng cầu giám định gói niêm phong thu giữ của Trần S nêu trên. Tại bản kết luận giám định số 8123/KLGĐ-PC09 ngày 15/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an thành phố Hà Nội (bút lục 42), kết luận:

“Chất bột màu trắng bên trong 02 gói (bên ngoài được quấn băng dính màu đen, đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng: 11,042 gam”.

- Về nguồn gốc ma túy thu giữ của Trần S ngày 09/9/2020: S khai mua ngày 06/9/2020 của người nam giới không quen biết tại khu vực tòa nhà Hồ Gươm Plaza, phường Mộ Lao, quận Hà Đông, Hà Nội. Ngoài lời khai của S không có tài liệu nào chứng minh, nên không có cơ sở điều tra xử lý.

- Đối với chị Doãn Thị T là người đi cùng Trần S khi bị bắt: Quá trình điều tra xác định khi đi cùng và tại khu vực S bị bắt giữ, chị T không biết được S đem theo ma túy trong người để bán như trên. Nên không có căn cứ để xử lý.

- Chiếc xe máy Honda Lead, BKS: 29E2-576.10, số khung RLHJF7937K2, số máy JF89E0045880 bị thu giữ: Kết quả điều tra xác định thuộc sở hữu của chị Doãn Thị T, xe có đủ giấy tờ hợp lệ, không nằm trong cơ sở dữ liệu vật chứng. Cơ quan điều tra đã xử lý trả lại cho chị T là có căn cứ, đúng pháp luật.

Trước cơ quan điều tra, Trần S đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại bản cáo trạng số 289/2020/CT-VKS-HĐ ngày 27/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông đã truy tố Trần S về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i, q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Trần S như tội danh và điều luật đã viện dẫn tại bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ vào điểm i, q khoản 2 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Trần S từ 10 năm đến 11 năm tù. Thời hạn tù tính từ 09/9/2020 là ngày bắt người phạm tội quả tang.

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong dán kín, các mép dán có chữ ký của Trần S, Doãn Thị T, cán bộ công an phường Biên Giang Đỗ Mạnh Tuấn và giám định viên Trần Ngọc Chinh.

Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại Oppo màu đen, số sim: 0968536439 và 0339223359; 01 điện thoại Viettel màu vàng, số sim 0585015786.

Bị cáo Trần S không có tranh luận gì với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của mình là vi phạm pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Công an quận Hà Đông, Kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa ,bị cáo Trần S không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2].Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Trần S đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với vật chứng đã thu giữ trong vụ án và kết luận giám định. Đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12 giờ 30 ngày 09/9/2020, tại khu vực đất làng nghề phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, Trần S có hành vi đem theo người 02 gói ma túy loại Heroine, khối lượng 11,042 gam với mục đích tìm người để bán trái phép kiếm lời, chưa bán được thì bị tổ công tác Công an phường Biên Giang, quận Hà Đông làm nhiệm vụ phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng. Hành vi đem theo người khối lượng 11,042 gam ma túy loại Heroine với mục đích bán kiếm lời của bị cáo Trần S đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy „ theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015. Mặt khác Bản án số 353/HSST ngày 21/11/2012 của Tòa án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội đã xác định bị cáo tái phạm nguy hiểm và chưa được xóa án tích, do vậy lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm được quy định tại điểm q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 . Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông truy tố bị cáo Trần S theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3]. Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự coi thường pháp luật, xâm phạm sự quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm an ninh trật tự an toàn xã hội. Ma túy là chất gây nghiện làm hủy hoại sức khỏe con người, làm sói mòn đạo đức xã hội và còn là nguyên nhân gây ra nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Trần S đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải hành vi phạm tội của mình, do đó bị cáo đủ điều kiện hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

[5]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự [6].Về nhân thân : Bị cáo Trần S có nhân thân xấu và có 02 tiền án chưa được xóa án tích.

[7]. Về quyết định hình phạt: Sau khi xem xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy bị cáo Trần S là người đã trưởng thành, có sức khỏe, biết rất rõ tác hại của ma túy và đường lối xử lý của pháp luật. Bản thân bị cáo là người đã được pháp luật giáo dục, nhưng không lấy đó làm bài học để sửa đổi bản thân mà lại tiếp tục đi vào con đường phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý, thuộc loại tội rất phạm rất nghiêm trọng, vì vậy cần phải được xử lý nghiêm khắc trước pháp luật cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo cũng như đảm bảo công tác đấu tranh và phòng chống tội phạm.

[8]. Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định do vậy không cần thiết phái áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 .

[9]. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong dán kín, các mép dán có chữ ký của Trần S, Doãn Thị T, cán bộ công an phường Biên Giang Đỗ Mạnh Tuấn và giám định viên Trần Ngọc Chinh.

Đối với 01 điện thoại Oppo màu đen, số sim: 0968536439 và 0339223359; 01 điện thoại Viettel màu vàng, số sim 0585015786 qua kiểm tra không có căn cứ xác định bị cáo dùng vào mục đích phạm tội nên cần trả lại bị cáo.

[10]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016.

[11]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Vì các lẽ trên! 

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố: Bị cáo Trần S phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Căn cứ điểm i, q khoản 2 Điều 251 ; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 .

Xử phạt: Trần S 10 ( mười ) năm tù . Thời hạn tù tính từ 09/9/2020 là ngày bắt người phạm tội quả tang.

2. Về xử lý vật chứng :

Căn cứ: Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 ; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong dán kín, các mép dán có chữ ký của Trần S, Doãn Thị T, cán bộ công an phường Biên Giang Đỗ Mạnh Tuấn và giám định viên Trần Ngọc Chinh.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Oppo màu đen, số sim: 0968536439 và 0339223359; 01 điện thoại Viettel màu vàng, số sim 0585015786.

( theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 28/12/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hà Đông, thành phố Hà Nội ).

3. Về án phí : Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về về mức thu, miễn giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Trần S phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo :

Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 279/2020/HS-ST ngày 29/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:279/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về