TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TN, TỈNH TN
BẢN ÁN 279/2020/HSST NGÀY 16/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16 tháng 7 năm 2020, tại hội trường Tòa án nhân dân thành phố TN, tỉnh TN xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 254/ 2020/HSST, ngày 01 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 287/ 2020 /QĐXXST- HS ngày 01/7/2020 đối với bị cáo:
Đặng Ngọc T, Sinh ngày 12/7/1987; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ T, phường Q, thành phố TN, tỉnh TN; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: lao động tự do; chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; con ông: Đặng Ngọc C ( đã chết và con bà: Nguyễn Thị Th, sinh năm 1956; gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ tư; vợ: Nguyễn Thái H, sinh năm 1987 ( đã ly hôn):
con: 01 sinh năm 2010.
Tiền án, tiền sự :Không Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/3/2020 đến nay. Bị cáo tạm giam có mặt tại phiên tòa.
Người chứng kiến: Hà Anh T, sinh năm 1991 ( Vắng mặt tại phiên tòa) HKTT: Tổ B4, phường Q, thành phố TN, tỉnh TN.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 21giờ 30 phút ngày 24/3/2020, tổ công tác của Công an phường Q, thành phố TN làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 8 của phường đã phát hiện 01 nam thanh niên có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, nam thanh niên trên khai tên là Đặng Ngọc T và tự giác lấy từ túi quần phía trước bên phải giao nộp 01 túi ni lon màu trắng bên trong chứa tinh thể màu trắng( theo Tiến khai là ma túy đá). Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng theo quy định.
Tiến hành mở niêm phong cân xác định trọng lượng: Số tinh thể màu trắng trong túi ni lon màu trắng thu giữ của Đặng Ngọc T có khối lượng 0,593 gam.
Tại bản kết luận giám định số 479/KL – KTHS ngày 01/4 Chất tinh thể màu trắng thu giữ của Đặng Ngọc T, là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,593 gam.
Tại Cơ quan điều tra,Đặng Ngọc T khai nhận: Khoảng 21 giờ, ngày 24/3/2020, Tiến đi bộ từ nhà đến khu vực đầu ngõ 448, đường Dương Tự Minh thuộc tổ 8, phường Q, thành phố TN mục đích tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Khi đi đến nơi, Tiến gặp và mua của 01 nam thanh niên không rõ lai lịch 01 gói ma túy được gói bằng túi ni lon màu trắng với giá 500.000 đồng. Mua xong, Tiến cất gói ma túy vào túi quần phía trước Tiến đang mặc rồi đi về tìm nơi sử dụng, khi đi được một đoạn thì bị tổ công tác công an phường Q, thành phố TN bắt quả tang.
Tại bản cáo trạng số 264/CT-VKSTPTN ngày 28/5/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố TN truy tố bị cáo Đặng Ngọc T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c, khoản 1 Điều 249 BLHS.
Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng : Điểm c, khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51,điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 BLHS 2015 xử phạt: bị cáo Đặng Ngọc T từ 24 đến 30 tháng tù giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Áp dụng Điều 47 BLHS năm 2015, Điều 106 BLTTHS năm 2015 xử lý vật chứng theo quy định.
- Áp dụng Điều 136 BLTTHS 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp án phí HSST vào ngân sách nhà nước.
Trong phần tranh luận bị cáo không tranh luận gì với bản luận tội của Viện kiểm sát.
Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo nói lời sau cùng xin được hưởng mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử NHẬN THẤY
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an, cơ quan Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên thành phố TN trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Đặng Ngọc T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ vụ án. Với chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 24/3/2020, tại khu vực tổ 8, phường Q, thành phố TN, Đặng Ngọc T có hành vi tàng trữ 0,593 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường Q, thành phố TN phát hiện và lập biên bản bắt người pghamj tội quả tang, thu giữ vật chứng.
Hành vi của bị cáo Đặng Ngọc T đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN truy tố bị cáo về tội danh và hình phạt viện dẫn là hoàn toàn có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.
Điều 249 BLHS quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a)… c, Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.”
[3] Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma túy hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước.Việc đưa ra xét xử đối với bị cáo là cần thiết để răn đe phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS. Xét tính chất, mức độ và hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng, cách ly xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân tốt và có ích cho xã hội.
[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù, lẽ ra bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS, nhưng xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản, mua ma túy về sử dụng không mang tính chất vụ lợi. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu T, mặt sau bì có 03 dấu tròn đỏ của phòng KTHS Công an tỉnh TN và chữ ký ghi họ tên Trần Đức Thủy.
(Vật chứng hiện đang lưu giữ bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự thành phố TN theo biên bản giao nhận vật chứng số 331 ngày 04/6/2020).
[7] Án phí; Quyền kháng cáo: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
[8] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, Đặng Ngọc T khai đã mua của 01 nam thanh niên không rõ lai lịch. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố TN không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 329 BLTTHS năm 2015.
Tuyên bố: Bị cáo Đặng Ngọc T phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt: Bị cáo Đặng Ngọc T 30 ( ba mươi) tháng tù giam. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 24/3/2020.
Quyết định tạm giam bị Đặng Ngọc T 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 BLHS năm 2015, Điều 106 BLTTHS năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu T, mặt sau bì có 03 dấu tròn đỏ của phòng KTHS Công an tỉnh TN và chữ ký ghi họ tên Trần Đức Thủy.
(Vật chứng hiện đang lưu giữ bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự thành phố TN theo biên bản giao nhận vật chứng số 331 ngày 04/6/2020).
Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016, buộc bị cáo Đặng Ngọc T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 279/2020/HSST ngày 16/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 279/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về