TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 278/2023/HS-ST NGÀY 15/06/2023 VỀ TỘI BẮT GIỮ NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT
Ngày 15 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 67/2023/TLST-HS ngày 08 tháng 02 năm 2023. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 133/2023/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 3 năm 2023; Quyết định hoãn phiên toà số: 313/2023/QĐHPT- HS ngày 20/4/2023; Thông báo dời lịch xét xử vụ án hình sự số: 407/TB-TA ngày 18/5/2023 đối với bị cáo:
Đặng Khắc Minh S (Tên gọi khác: Không), sinh năm 1999; giới tính; Nam; Nơi cư trú: Xóm BM, xã NL, huyện NĐ, tỉnh NA; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 11/12; Cha: Đặng Khắc P, sinh năm 1973, còn sống; Mẹ: Đậu Thị L, sinh năm 1976, còn sống; Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; Bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị truy nã theo Quyết định truy nã số: 84/QĐTN-ĐTTH ngày 19/9/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) Công an thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; Bị cáo đầu thú ngày 10/10/2022, bị tạm giữ từ ngày 10/10/2022 theo Quyết định tạm giữ số 188/QĐ-CQCSĐT, chuyển tạm theo lệnh tạm giam số: 1039 /LTG-ĐTTH ngày 10/10/2022 của Cơ quan CSĐT Công an thành phố Biên Hòa; hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa; Bị cáo có mặt.
* Bị hại: Ông Cao Văn D, sinh năm 1980; Nơi cư trú: Thôn LP, xã KT, huyện PX, Thành phố HN (Có đơn xin xét xử vắng mặt);
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Trần Văn M, sinh năm 1969; Nơi cư trú: Tổ 16, khu phố 8A, phường LB, thành phố BH, tỉnh ĐN (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Trọng Hồng và Đặng Khắc Minh S làm lái xe thuê cho Công ty TNHH vận tải Trần Tấn T, địa chỉ: Tổ 16, khu phố 8A, phường LB, thành phố BH, tỉnh ĐN do ông Trần Văn M làm giám đốc.
Khoảng 15 giờ ngày 15/4/2021, H lái xe ô tô tải biển số 60C-504.xx (xe thuộc quản lý của Công ty Trần Tấn T) và rủ S đi cùng. Trên đường đi, H kể cho S nghe việc ông Cao Văn D, sinh năm 1980, thường trú: Thôn LP, xã KT, huyện PX, Thành phố HN thường nhắn tin tình cảm với vợ của H nên H đã dùng điện thoại của vợ H để hẹn ông D đến quán cà phê tại khu vực cầu 201 thuộc khu phố 11, phường AB, thành phố BH, tỉnh ĐN, đồng thời rủ S đi cùng để bắt, giữ và đánh anh D, S đồng ý.
Khi cả hai đến quán cà phê, H đi vào dùng tay đánh ông D rồi cùng S khống chế bắt giữ đưa ông D lên xe ô tô tải biển số 60C-504.xx chở đến bãi giữ xe ô tô của Công ty Trần Tấn T thuộc tổ 16, khu phố 8A, phường LB, thành phố BH. Ông D bỏ chạy trèo qua hàng rào ra ngoài đường thì H và S đuổi theo vây bắt, đánh và kéo ông D làm ông D bị vỡ xương gót bàn chân phải, gãy xương đốt bàn ngón II tay phải, đa chấn thương phần mềm, đầu. Ông D bất tỉnh thì bị H và S tiếp tục lôi vào một đường hẻm gần đó tiếp tục đánh. S đi vào bãi giữ xe trước, H ôm và vác ông D trên vai đưa vào xe ô tô tải biển số 60C-504.xx rồi chở ông D đến bãi đất trống thuộc tổ 20, khu phố 8A, phường LB, thành phố BH, H và S để ông D lại rồi bỏ đi. Sau đó ông Nguyễn Xuân D1 (là nhân viên bảo vệ Trường mầm non LB) đi ngang qua phát hiện ông D đang nằm bất động nên đã gọi điện trình báo Công an phường LB. Ông D được đưa đến Bệnh viện TN cấp cứu.
Sau khi gây án, Nguyễn Trọng Hồ và Đặng Khắc Minh S bỏ trốn và bị truy nã. Ngày 10/10/2022, Sơn đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An đầu thú.
Quá trình điều tra, Đặng Khắc Minh S khai nhận hành vi phạm tội như trên.
* Vật chứng thu giữ:
- 02 đĩa DVD chứa 04 đoạn video clip chứa nội dung Nguyễn Trọng H và Đặng Khắc Minh S khống chế, bắt, giữ ông Cao Văn D (Lưu trữ trong hồ sơ vụ án).
- Đối với xe ô tô tải biển số 60C-504.xx thuộc quản lý của Công ty TNHH vận tải Trần Tấn T, ông M không biết Nguyễn Trọng H và Đặng Khắc Minh S dùng vào việc phạm tội nên Cơ quan điều tra không thu giữ.
- Ông Trần Văn M giao nộp 01 điện thoại di động OPPO hiệu F11 Pro bị hư hỏng, vỡ màn hình; 01 bóp da màu đen bên trong có 90.000 đồng (Chín mươi ngàn đồng); 01 dây chuyền màu trắng; 01 mặt dây chuyền bằng ngà; 01 chai nước hoa không nhãn hiệu; 01 thẻ ngân hàng Sacombank mang tên Cao Văn D. Ông M khai sau khi đưa ông D đến Bệnh viện Thống Nhất cấp cứu, nhân viên y tế đã mang ra các tài sản trên và thông báo là tài sản trên người của ông D nên ông M giữ dùm. Ông D khai bị Nguyễn Trọng H và Đặng Khắc Minh S gây thương tích, chiếm đoạt tài sản là 01 sợi dây chuyền vàng 18K trọng lượng 3,7 chỉ và làm hư hỏng 01 điện thoại di động OPPO hiệu F11 Pro của ông D. Sau khi xảy ra vụ án, ông D đã đi khỏi địa phương, không sinh sống ở nơi thường trú. S khai nhìn thấy H lấy điện thoại trong túi quần ông D ném xuống đất, S không thừa nhận có hành vi chiếm đoạt và hủy hoại tài sản của ông D. Do chưa làm rõ nguồn gốc tài sản trên, hành vi chiếm đoạt tài sản và làm hư hỏng điện thoại nên Cơ quan điều tra tách các tài sản nêu trên ra tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.
Tại kết luận định giá tài sản số: 253/KL-HĐĐGTS ngày 31/5/2021 và số;
259/KL-HĐĐGTS ngày 02/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố Biên Hòa kết luận:
- Trị giá thiệt hại của 01 điện thoại di động OPPO hiệu F11 Pro là 4.053.000 đồng (Bốn triệu không trăm năm mươi ba ngàn đồng).
- 01 sợi dây chuyền vàng 18K trọng lượng 3,7 chỉ trị giá là 14.174.700 đồng (Mười bốn triệu một trăm bảy mươi bốn ngàn bảy trăm đồng).
Về dân sự: Do chưa làm việc được với bị hại Cao Văn D về yêu cầu bồi thường dân sự nên tách ra thành một vụ kiện riêng khi bị hại có yêu cầu.
Đối với Nguyễn Trọng H: Sau khi phạm tội đã bỏ trốn, hiện đang bị truy nã, khi nào bắt được xử lý sau.
* Quá trình điều tra: Bị hại Cao Văn D khai bị Nguyễn Trọng H và Đặng Khắc Minh S gây thương tích, chiếm đoạt tài sản là 01 sợi dây chuyền vàng 18K trọng lượng 3,7 chỉ và làm hư hỏng tài sản của ông D. Tuy nhiên, ông D đã đi khỏi nơi cư trú nên chưa thể xác minh làm rõ và không thể đưa ông D đi giám định thương tích. Mặc khác, do H đã bỏ trốn chưa lấy được lời khai, tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ chưa đủ cơ sở xác định hành vi của Nguyễn Trọng H và Đặng Khắc Minh S cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”, “Cướp tài sản”, “Huỷ hoại tài sản”. Vì vậy, Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa tách ra tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.
Cáo trạng số: 83/CT-VKSBH ngày 07/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Đặng Khắc Minh S về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” theo quy định tại khoản 1 Điều 157 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa giữ nguyên cáo trạng truy tố đối với bị cáo Đặng Khắc Minh S và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX):
- Áp dụng khoản 1 Điều 157; các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017): Xử phạt bị cáo Đặng Khắc Minh S mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”.
- Về xử lý vật chứng: Vật chứng vụ án sẽ được xử lý trong vụ án hình sự xét xử đối với bị can Nguyễn Trọng H.
- Về trách nhiệm dân sự: Giữa bị hại Cao Văn D và phía bên gia đình bị cáo Đặng Khắc Minh S và bị can Nguyễn Trọng H đã thoả thuận bồi thường xong nên không đề nghị HĐXX xem xét giải quyết.
Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát.
Bị cáo Đặng Khắc Minh S nói lời sau cùng: Bị cáo kính xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo mức thấp nhất để sớm trở về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2]. Về xét xử vắng mặt đương sự: Bị hại ông Cao Văn D có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa ngày 30/3/2023, xét đơn của ông D làm hợp lệ nên chấp nhận;
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Trần Văn M Toà án triệu tập hợp nhưng đương sự vắng mặt không lý do. Căn cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt ông D và ông M theo quy định của pháp luật.
[3]. Tại phiên toà, bị cáo Đặng Khắc Minh S đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, đối chiếu lời khai bị cáo tại phiên toà với lời khai của bị cáo, bị hại và các tài liệu, chứng cứ thu thập được có tại hồ sơ đủ cơ sở kết luận: Ngày 15/4/2021, tại quán cà phê tại khu vực cầu 201 thuộc khu phố 11, phường AB, thành phố BH, tỉnh ĐN, Nguyễn Trọng H và Đặng Khắc Minh S đã có hành vi đánh đập, bắt, giữ người trái pháp luật đối với ông Cao Văn D, sinh năm 1980, nơi cư trú: Thôn LP, xã KT, huyện PX, Thành phố HN. Sau đó, H và S khống chế bắt, giữ đưa ông D lên xe ô tô tải biển số 60C-504.xx chở đến bãi giữ xe ô tô của Công ty TNHH vận tải Trần Tấn T thuộc tổ 16, khu phố 8A, phường LB, thành phố BH, tại đây H và S tiếp tục đánh ông D, ông D bỏ trốn trèo qua hàng rào ra ngoài đường thì H và S đuổi theo vây bắt, giữ đánh ông D đến bất tỉnh. Sau đó H và S mang ông D lên xe ô tô đưa đến bãi đất trống thuộc tổ 20, khu phố 8A, phường LB, thành phố BH bỏ ông D ở lại một mình rồi bỏ đi, sau đó H và S bỏ trốn và bị truy nã. Ngày 10/10/2022, Sơn đến Công an huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An đầu thú.
Hành vi nêu trên của bị cáo Đặng Khắc Minh S đã phạm vào tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai truy tố theo quy định tại khoản 1 Điều 157 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ.
Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, tự do cá nhân của con người được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh trật tự, trị an tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Sau khi gây án, bị cáo bỏ trốn và bị truy nã, gây khó khăn cho Cơ quan điều tra. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo, răn đe và phòng ngừa chung.
[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; đã bồi thường thiệt hại cho bị hại; có ông ngoại tên Đậu Quang V là thương binh hạng A2/8 theo quy định tại các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[5]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
[6]. Về nhân thân: Bị cáo có nhân tốt.
[7]. Về xử lý vật chứng: Tại đơn xin xét xử vắng mặt ngày 30/3/2023 của bị hại Cao Văn D có tại hồ sơ, ông D có trình bày nội dung: “Quá trình điều tra tôi tự nguyện giao nộp 01 dây chuyền bạc, 01 ví da trong đó có giấy tờ tuỳ thân của tôi, 01 điện thoại Oppo F11 Pro. Tôi được biết các tài sản trên sẽ được giải quyết trong vụ án xét xử bị can Nguyễn Trọng H nên tôi không yêu cầu giải quyết trong vụ án xét xử đối với bị cáo Đặng Khắc Minh S mà xin trả lại các tài sản trên trong vụ án xét xử đối với bị can H” nên HĐXX không xét.
[8]. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
+ Tại đơn xin xét xử vắng mặt ngày 30/3/2023 của bị hại Cao Văn D có tại hồ sơ, ông D có trình bày nội dung: “Giữa tôi và phía bên gia đình bị cáo Đặng Khắc Minh S và bị can Nguyễn Trọng H đã thoả thuận bồi thường cho tôi xong, tôi không yêu cầu bồi thường hay bất cứ yêu cầu gì khác về dân sự đối với bị cáo S và bị can H. Tôi không thắc mắc hay khiếu nại gì về vấn đề này” nên HĐXX không xét.
+ Bản khai có tại hồ sơ, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Trần Văn M không yêu cầu bị cáo S bồi thường thiệt hại nên HĐXX không xét.
[9]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội hướng dẫn về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
- Bị cáo Đặng Khắc Minh S phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
[10]. Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa tại phiên tòa phù hợp với nhận định của HĐXX nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 157; Điều 38; các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017); các Điều 45, 135, 136, 326, 327, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố bị cáo Đặng Khắc Minh S phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”.
- Xử phạt bị cáo Đặng Khắc Minh S 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/10/2022.
2. Về xử lý vật chứng: Không.
3. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Không.
4. Về án phí: Bị cáo Đặng Khắc Minh S phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về kháng cáo: Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại ông Cao Văn D và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Trần Văn M vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 278/2023/HS-ST ngày 15/06/2023 về tội bắt giữ người trái pháp luật
Số hiệu: | 278/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/06/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về