Bản án 278/2020/HS-ST ngày 29/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 278/2020/HS-ST NGÀY 29/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 5 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 264/2020/TLST-HS ngày 14 tháng 5 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 275/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2020 đối với:

- Bị cáo: Nguyễn Tấn L (tên gọi khác: M), sinh năm 2000 tại tỉnh Đồng Nai; Nơi đăng ký thường trú và cư trú: Khu phố T, phường X, thành phố L, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không.; trình độ văn hóa (học vấn): 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn D và bà Mai Thị L; bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án: Ngày 29-11-2018, bị Tòa án nhân dân thị xã L (nay là thành phố L), tỉnh Đồng Nai xử phạt 06 (sáu) tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 139/2018/HSST;

Tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 27/02/2020 theo Lệnh bắt bị can để tạm giam số 14 ngày 30-12-2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa; có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Anh Nguyễn Phước Huệ T, sinh năm 1987; cư trú tại: Số A, khu phố 1, phường T, thành phố B; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Nội dung chính của vụ án:

Nguyễn Tấn L là người đã có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, đang ở cùng với cha ruột là ông Nguyễn Văn D tại nhà trọ “H.O” thuộc khu phố A, phường T, thành phố Biên Hòa. Khoảng 05 giờ 30 phút ngày 26-8-2019, L ngủ dậy đi ra ngoài dãy phòng trọ thì phát hiện có 03 (Ba) chiếc xe mô tô cắm sẵn chìa khóa, để ở trước dãy nhà trọ, không có ai trông coi nên L nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Thực hiện ý định trên, L đi đến dắt chiếc xe mô tô biển số 51X6-3610, nhãn hiệu Boss của anh Nguyễn Phước Huệ T ngụ tại khu phố 1, phường T, thành phố Biên Hòa ra ngoài cổng phòng trọ, nổ máy chạy về nhà mẹ ruột là bà Mai Thị L tại ấp H, xã HT, huyện Tr và để lại chiếc xe mô tô trên ở đó, còn L bắt xe buýt về phường X, thành phố L. Sự việc xảy ra, anh T đến Công an phường Tân Hạnh trình báo. Công an phường Tân Hạnh lập hồ sơ, chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa điều tra, xử lý. Qua điều tra, xác minh ngày 30-12-2019, L bị khởi tố, xử lý.

Biên bản ghi lời khai, hỏi cung bị can (bút lục số 58, 59-60), biên bản ghi lời khai bị hại (bút lục số 35),biên bản ghi lời khai người làm chứng (bút lục số 37, 42).

Vật chứng thu giữ, gồm:

- 01 (Một) chiếc xe mô tô biển số 51X6-3610, nhãn hiệu Boss hiện chưa xác minh làm rõ được nguồn gốc, chủ sở hữu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tách ra, tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ, xử lý sau. (bút lục số 43).

- 01 (Một) đĩa CD lưu giữ đoạn Video clip ghi lại hình ảnh Nguyễn Tấn L trộm cắp tài sản: lưu hồ sơ vụ án. (bút lục số 44).

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 402/TCKH-HĐĐG ngày 10-9-2019, của Hội đồng định giá tài sản thành phố Biên Hòa đã kết luận: “01 (Một) xe mô tô biển số 51X6-3610, nhãn hiệu Boss, màu nâu có giá trị tài sản định giá là 3.200.000đ (Ba triệu hai trăm nghìn đồng).” (bút lục số 48, 49).

Trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Phước Huệ T yêu cầu được nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường. (bút lục số 35).

2. Truy tố:

Tại Cáo trạng số: 282/CT-VKSBH ngày 14/5/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố Nguyễn Tấn L về tội: “Trộm cắp tài sản”, theo Khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị;

+ Áp dụng Khoản 1, Điều 173 và Điểm h, s Khoản 1 Điều 51; điểm h, Khoản 1, Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn L từ: 12 tháng đến 14 tháng tù.

4. Ý kiến của những người tham gia tố tụng:

- Người bị hại anh Nguyễn Phước Huệ T trình bày: Anh không yêu cầu bồi thường mà xin nhận lại tài sản là xe môto biển số 51X6-3610, nhãn hiệu Boss do L trộm cắp. Về trách nhiệm hình sự của bị cáo L, anh T đề nghị giải quyết theo quy định pháp luật.

- Lời nói sau cùng: Bị cáo ăn năn hối cải, xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tố tụng:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi bị truy tố, tội danh và các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt: - Những chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai trong biên bản hỏi cung bị can, biên bản lấy lời khai bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, kết luận định giá tài sản, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Nguyễn Tấn L là người đã có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”. Khoảng 05 giờ 30 phút ngày 26-8-2019, tại “H.O” thuộc khu phố A, phường T, thành phố Biên Hòa, L đã có hành vi trộm cắp 01 (một) chiếc xe mô tô biển số 51X6- 3610, nhãn hiệu Boss, màu nâu có giá trị tài sản định giá là 3.200.000đ (Ba triệu hai trăm nghìn đồng) của anh Nguyễn Phước Huệ T. Đến ngày 30-12-2019, L bị khởi tố, xử lý.

- Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và lỗi: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại được Nhà nước bảo vệ, gây ảnh hưởng trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo biết việc lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo đã từng bị Tòa án xử phạt tù về hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng không lấy đó làm bài học tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà tiếp tục phạm tội.

- Về tội danh: Từ căn cứ trên, xác định bị cáo Nguyễn Tấn L phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Như vậy, bản Cáo trạng số 282/CT-VKSBH ngày 14/5/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo Nguyễn Tấn L về tội “trộm cắp tài sản” theo các điều khoản tương ứng nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 29-11-2018, Nguyễn Tấn L bị Tòa án nhân dân thành phố L xử phạt 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích nhưng tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý nên được xác định là tái phạm, thuộc trường hợp quy định tại điểm h, Khoản 1, Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; thuộc trường hợp được quy định tại điểm h, s, Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Vì vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Từ những nhận định trên, xét về tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả của hành vi phạm tội gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo cũng như yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo Nguyễn Tấn L để đảm bảo sự nghiêm minh, khoan hồng của phát luật và giáo dục, răn đe phòng ngừa chung.

[3] Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về dân sự:

Người bị hại là anh T không yêu cầu bồi thường nên không xem xét.

[4] Về vật chứng và các vấn đề khác có liên quan vụ án:

- Đối với 01 (một) chiếc xe mô tô biển số 51X6-3610, nhãn hiệu Boss, anh T khai mua lại của 01 người tên Hoài không rõ nhân thân. Do chưa xác minh làm rõ được nguồn gốc, chủ sở hữu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tách ra, tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ, xử lý sau là phù hợp.

- Đối với 01 (Một) đĩa CD lưu giữ đoạn video clip ghi lại hình ảnh Nguyễn Tấn L trộm cắp tài sản cần tiếp tục lưu hồ sơ vụ án.

- Đối với bà Mai Thị L, theo lời khai của Nguyễn Tấn L và ông Nguyễn Văn D khi mang xe đến gửi ở nhà bà L thì bà L có biết là xe do trộm cắp mà có nhưng không thuộc trường hợp phải chịu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan điều tra không xử lý là phù hợp quy định pháp luật.

[5] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm;

[6] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa:

- Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên: Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh nêu trên và đề nghị mức hình phạt phù hợp nên được chấp nhận.

- Đối với phần trình bày của bị cáo, bị hại được Hội đồng xét xử xem xét khi nghị án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tấn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Căn cứ Khoản 1, Điều 173; điểm h, s, Khoản 1 Điều 51; điểm h, Khoản 1, Điều 52 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn L 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27 tháng 02 năm 2020.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Nguyễn Tấn L phải nộp 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 278/2020/HS-ST ngày 29/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:278/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:29/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về