Bản án 278/2020/HS-ST ngày 15/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 278/2020/HS-ST NGÀY 15/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 15 tháng 7 năm 2020, tại hội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 259/2020/TLST-HS ngay 01 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 292/2020/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 7 năm 2020 đôi vơi bi cao:

Trần Văn S (tên gọi khác: không), sinh ngày 11/8/1986; Nơi đăng ký HKTT: Xóm A, xã B, huyện C, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Cao Lan; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; Giới tính: Nam; Con ông: Trần Hữu T, sinh năm 1963 và ba : Ngô Thị N, sinh năm 1963; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ hai. Vợ là Hoàng Thị T, sinh năm 1987; Có 02 con: Con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2014.

Tiền án, tiền sự: Không:

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/03/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên.

(có mặt tại phiên tòa)

Người chứng kiến:

1. Ông Sái Quốc V, sinh năm 1971; ĐKHKTT: TDP A, phường B, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt).

Người có quyền và nghĩa vụ liên quan:

 1 1. Ông Vũ Đình Q, sinh năm 1993; ĐKHKTT: Tổ A, phường B, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt).

2. Ông Lê Văn H, sinh năm 1973; ĐKHKTT: Xóm C, xã D, huyện E, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt).

3. Bà Trần Thị G, sinh năm 1990; ĐKHKTT: Đường X, khu Y, đường Z, thành phố H, tỉnh Hải Dương (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 08 giờ 15 phút ngày 24/3/2020, tổ công tác Công an phường A, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên đang làm nhiệm vụ tại khu vực tổ dân phố B, phường C, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên thì phát hiện một người đàn ông điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 34B1-55XYZ có biểu hiện nghi vấn. Khi tổ công tác tiếp cận, yêu cầu kiểm tra thì người đàn ông này đã ném từ lòng bàn tay trái 01 gói giấy bạc màu vàng xuống đất cách vị trí người này đứng 01 mét. Tổ công tác đã mời người chứng kiến việc kiểm tra. Người đàn ông khai nhận tên là Trần Văn S. S khai nhận vật vừa ném xuống đất là 01 gói ma túy của S và tự giác dùng tay trái nhặt 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong có chứa chất bột màu trắng nên giao nộp cho tổ công tác. Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng, lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang đối với Trần Văn S. Ngoài ra tổ công tác còn tạm giữ của S 01 xe mô tô Wave, BKS 34B1-55047, màu S đỏ, đã qua sử dụng.

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng: Số chất màu trắng thu giữ của Trần Văn S là 0,110 gam.

Tại bản kết luận giám định số 494/KL-KTHS ngày 01/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: mẫu chất bột màu trắng trong mẫu bì kí hiệu S thu giữ của S là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,110 gam.

Tại cơ quan điều tra Trần Văn S khai nhận: Khoảng 7 giờ 30 ngày 24/3/2020, S một mình điều khiên xe mô tô Wave, biển kiểm soát 34B1-55XYZ từ nhà đến khu vực đền M, thuộc tổ dân phố A, phường B, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại đây, S gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 01 gói ma túy Heroine với giá 100.000 đồng. S cầm gói ma túy vừa mua được ở lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe mô tô đi tìm nơi sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường B, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên phát hiện, yêu cầu kiểm tra. Do sợ bị phát hiện nên S đã ném gói ma túy xuống đất cách vị trí S đứng 01 mét thì bị tổ công tác Công an phường A, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng nêu trên.

Vật chứng của vụ án gồm:

- 01 bì niêm phong ký hiệu S bên trong chứa ma túy và vỏ bao gói mẫu.

Hiện vật chứng đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda – Wave biển kiểm soát 34B1-55XYZ, màu S đỏ, đã qua sử dụng là xe của anh Vũ Đình Q, (sinh năm 1993; Nơi cư trú: Tổ A, phường B, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên). Qua quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô không liên quan đến vụ án nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Q quản lý, sử dụng.

Tại bản cáo trạng số 269/CT-VKSNDTPTN ngày 28/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên truy tố Trần Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS.

Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xác định Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo là đúng người đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên luận tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249: điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS xử phạt Trần Văn S từ 18 đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Tịch thu tiêu hủy bì niêm phong ký hiệu S.

Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của UBTVQH14 buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Tại lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Lời khai của Trần Văn S tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó có căn cứ xác định.

Hồi 08 giờ 15 phút, ngày 24/3/2020, tại khu vực tổ dân phố A, phường B, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên, Trần Văn S đang có hành vi tàng trữ 0,110 gam Heroine nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác Công an phường B, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Nội dung điều 249 BLHS quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) ...

c) Herroine...có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử NHẬN THẤY

Hành vi của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy. Lỗi của bị cáo là lỗi cố ý trực tiếp.

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào theo quy định tại Điều 52 của BLHS.

[4]. Về hình phạt: Sau khi xem xét đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vai trò, cũng như nhân thân của bị cáo thì thấy rằng cần có có mức án nghiêm khắc để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đảm bảo tính chất ngăn ngừa tội phạm nói chung và các tội phạm về ma túy nói riêng. Xét thấy mức hình phạt từ 18 đến 24 tháng tù mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đề nghị khi luận tội là có phần nghiêm khắc đối với hành vi phạm tội do bị cáo đã gây ra.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, công việc và thu nhập không ổn định, không có tài sản gì để đảm bảo thi hành án, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với vất chứng là 01 bì niêm phong ký hiệu S là ma túy còn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với vất chứng là 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda - Wave biển kiểm soát 34B1-55047, màu S đỏ, đã qua sử dụng là xe của anh Vũ Đình Q. Qua quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô không liên quan đến vụ án nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Q quản lý, sử dụng. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[7] Về các vấn đề khác:

Nguồn gốc số Heroine bị thu giữ theo Trần Văn S khai nhận mua của một người đàn ông không quen biết tại khu vực đền M, thuộc tổ dân phố A, phường B, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên ngày 24/3/2020. Quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của người đàn ông này nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở làm rõ để xử lý.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Trần Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự:

1. Xử phạt: Trần Văn S 15(mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 24/03/2020.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 329 của BLTTHS: Tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu S bên trong chứa ma túy và vỏ bao gói mẫu, mặt sau có chữ ký của Nguyễn Thành Trung và Lê Tuấn Anh cùng 02 dấu tròn đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên.

(Đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng số 311 ngày 20/ 5/2020 giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên.) 3.Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016/QH ngày 30/12/2016 quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Trần Văn S phải chịu 200.000 đồng án phí HSST sung ngân sách nhà nước.

Án xét xử sơ thẩm công khai. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc ngày niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 278/2020/HS-ST ngày 15/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:278/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về