Bản án 278/2019/HS-PT ngày 18/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 278/2019/HS-PT NGÀY 18/06/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 206/2019/HSPT ngày 16 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Phùng Đ do có kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 85/2019/HS-ST ngày 11 tháng 4 năm 2019 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo bị kháng nghị:

Nguyễn Phùng Đ; giới tính: nam; sinh năm 1976 tại Hà Nội; thường trú: xóm A SK, xã B, huyện C, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 7/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông: NPT và bà: NTV; hoàn cảnh gia đình: bị cáo có vợ và 01 con (sinh năm 1996); tiền sự: không;

Tiền án:

- Ngày 30/11/2001, bị Tòa án nhân dân huyện Phước Long, tỉnh Bình Phước xử phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về “Tội Trộm cắp tài sản”, thời gian thử thách là 48 tháng (Bản án số 63/HSST – BL 34-35);

- Ngày 30/5 và 02/6/2003, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 07 năm tù về “Tội Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt với Bản án số 63/HSST ngày 30/11/2001 của Tòa án nhân dân huyện Phước Long, tỉnh Bình Phước, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 09 năm tù (Bản án số 191/HSST – BL 102);

- Ngày 14/10/2003, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xử phạt 04 năm tù về “Tội Trộm cắp tài sản” và 02 năm tù về “Tội Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”. Tổng hợp với hình phạt tại Bản án số 191/HSST ngày 30/5 và 02/6/2003, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 15 năm tù (Bản án số 139/HSST – BL 36-41). Ngày 23/10/2013, bị cáo chấp hành xong án phạt tù (Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số 1017/GCN-CHXHPT của Giám thị Trại giam Xuyên Mộc – BL 42);

- Ngày 27/5/2016, bị Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội xử phạt 03 năm 06 tháng tù về “Tội Trộm cắp tài sản” (Bản án số 118/2016/HSST – BL 46-48). Bị cáo có kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 10/8/2016, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, xử phạt bị cáo 33 tháng tù về “Tội Trộm cắp tài sản” (Bản án số 840/2016/HSPT – BL 43-45). Ngày 12/02/2018, chấp hành xong hình phạt tù (Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số 92/GCN của Giám thị Trại giam Suối Hai – BL 49); đã nộp án phí hình sự sơ thẩm theo biên lai số 8624 ngày 13/9/2016 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Xuân (Biên bản xác minh ngày 05/11/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Xuân – BL 50);

Bị bắt, tạm giam từ ngày: 06/10/2018 (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 06 giờ 00 ngày 06/10/2018, Nguyễn Phùng Đ gặp đối tượng Vụ (không rõ lai lịch, là bạn ngoài xã hội của Đ) tại ngã tư Bình Triệu. Cả hai rủ nhau tìm tài sản để trộm cắp. Đối tượng Vụ điều khiển xe mô tô không rõ biển số chở bị cáo Đ đi trên đường Võ Văn Ngân thì bị cáo phát hiện xe mô tô biển số 93M1-181.83 của bà Lê Thị H dựng trước địa chỉ số số A1 đường VVN, phường B1, quận C1, Thành phố Hồ Chí Minh, không người trông coi. Bị cáo nói đối tượng Vụ dừng xe để Vụ cảnh giới, bị cáo đến gần xe của bà H, lấy đoản bẻ khóa xe rồi nổ máy bỏ chạy. Lúc này, ông NKHN (chồng bà H) phát hiện nên ném chiếc ghế vào người bị cáo, làm bị cáo và xe ngã xuống đất. Bị cáo bị bắt giữ và chuyển đến Công an phường Trường Thọ, quận Thủ Đức. Tại cơ quan công an, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như trên.

Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 2090/CV-HĐ ĐG TS TTTHS ngày 15/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân quận Thủ Đức (BL 64) thể hiện: xe mô tô biển số 93M1-181.83 có giá trị là 32.000.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 85/2019/HS-ST ngày 11 tháng 4 năm 2019 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Phùng Đ phạm “Tội Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Nguyễn Phùng Đ 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/10/2018.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xử sơ thẩm, ngày 10/5/2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 23/QĐ-VKS-P7 với nội dung: đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm, sửa bản án sơ thẩm theo hướng áp dụng thêm điểm b khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Phùng Đ theo hướng tăng hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Phùng Đ khai nhận hành vi phạm tội như nội dung Bản án sơ thẩm ghi nhận, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng nghị phúc thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích tính chất của vụ án, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị phúc thẩm, xử phạt bị cáo Nguyễn Phùng Đ từ 03 năm 06 tháng tù đến 04 năm tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vào khoảng 06 giờ 00 ngày 06/10/2018, tại trước nhà số số A1 đường VVN, phường B1, quận C1, Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Phùng Đ và 01 đối tượng tên Vụ (không rõ lai lịch) đã có hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc xe mô tô biển số 93M1-181.83 của bà Lê Thị H thì bị phát hiện, bắt quả tang, riêng đối tượng Vụ chạy thoát. Qua định giá, chiếc xe trên có giá trị 32.000.000 đồng. Với hành vi trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xét xử bị cáo Nguyễn Phùng Đ về “Tội Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội.

[2] Quyết định kháng nghị phúc thẩm trong hạn luật định nên được xem xét.

Về lý lịch của bị cáo Nguyễn Phùng Đ:

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Phùng Đ khai nhận sinh ngày 17 tháng 7 năm 1976; có địa chỉ thường trú là xóm A, thôn SK, xã B, huyện C, thành phố Hà Nội; sau khi chấp hành xong án phạt tù thì về lại địa phương.

Bản án hình sự sơ thẩm số 85/2019/HS-ST ngày 11 tháng 4 năm 2019 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức ghi nhận bị cáo Đ khai nhận sinh ngày 17 tháng 7 năm 1976; có địa chỉ thường trú là xóm A, thôn SK, xã B, huyện C, thành phố Hà Nội; chỗ ở: không có nơi cư trú ổn định.

Lý lịch bị can, Danh bản, Chỉ bản, Trích lục tiền án, tiền sự (BL 28-29, 30 và 32, 33, 31) lưu giữ tại hồ sơ vụ án (trong đó Lý lịch bị can được Công an xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội xác nhận ngày 22/10/2018) đều thể hiện bị cáo Đ sinh năm 1976, thường trú tại xóm A SK, xã B, huyện C, thành phố Hà Nội.

Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào các tài liệu liên quan đến lý lịch mới nhất và được thu thập theo trình tự tố tụng hình sự, được lưu giữ tại hồ sơ vụ án để ghi nhận về lý lịch của bị cáo như đã nêu ở phần đầu bản án.

[3] Xét kháng nghị phúc thẩm, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy:

Bị cáo Nguyễn Phùng Đ từng bị xử phạt về hành vi “Trộm cắp tài sản” vào các năm 2001, 2003, 2016, chưa được xóa án tích, lại tiếp tục phạm tội nên thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo là có căn cứ.

Tuy nhiên, bị cáo Nguyễn Phùng Đ có 04 tiền án cùng về “Tội Trộm cắp tài sản”, hiện tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội với cùng một thủ đoạn là dùng đoản bẻ khóa các xe mô tô có giá trị như đã nêu, bị cáo sử dụng tài sản chiếm đoạt được làm nguồn sống chính nên thuộc trường hợp phạm tội “có tính chất chuyên nghiệp” được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị phúc thẩm, tăng mức hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Phùng Đ để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355; điểm a khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 23/QĐ-VKS-P7 ngày 10/5/2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Sửa bản án sơ thẩm.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Phùng Đ phạm “Tội Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm b, g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Nguyễn Phùng Đ 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/10/2018.

Bị cáo không nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

284
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 278/2019/HS-PT ngày 18/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:278/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về