Bản án 278/2018/HS-PT ngày 16/07/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 278/2018/HS-PT NGÀY 16/07/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 16/7/2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 219/2018/TLPT-HS, ngày 28/5/2018 đối với bị cáo Lê Thị Thu L do có kháng cáo của bị cáo L đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 95/2018/HS-ST ngày 24/04/2018 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo: Lê Thị Thu L (Tên gọi khác: không); giới tính: nữ; sinh năm: 1973, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: 199 NH, tổ 3, khu phố 1, phường ALP, quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Nhà không số, hẻm 122, đường số 11, khu phố Q, phường TT, quận X, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 0/12; nghề nghiệp: không; Con ông Lê Văn B (đã chết) và bà Phạm Thị L - sinh năm: 1930; Bị cáo không có chồng, có 03 con: Vũ Trọng Đ - sinh năm: 1991, Phan Phúc Trâm A - sinh năm: 2012 và Lê Phúc T - sinh năm 2014; tiền sự: không; tiền án: Không;

Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 22/12/2016, được tại ngoại ngày 29/12/2016. (Có mặt tại phiên tòa)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Trần Tuấn D - sinh năm: 1990.

Trú tại: 89A, đường số 8, khu phố 3, phường TL, quận X, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt tại phiên tòa)

+ Ông Lê Văn P - sinh năm: 1968;

Trú tại: Ấp N, xã Q, huyện BT, tỉnh Đồng Tháp; (Vắng mặt tại phiên tòa)

+ Ông Nguyễn Ngọc T - sinh năm 1989;

Trú tại: 24A tổ 6, khu phố 4, phường ALP, Quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt tại phiên tòa)

+ Ông Võ Duy Q - sinh năm: 1990;

Trú tại: Xã SL, huyện B, tỉnh Bình Thuận. (Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 10 phút, ngày 22/12/2016, tại trước cây xăng 27/7, địa chỉ số 624, đường CVK, khu phố E, phường Đ, quận X, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội Cảnh sát điều tra trật tự về ma túy Công an quận X tuần tra phát hiện bắt quả tang Lê Thị Thu L đang chuẩn bị bán ma túy cho Võ Duy Q. Thu giữ ngay tại chỗ L đang đứng 01 khẩu trang y tế, bên trong có 01 decal màu vàng trắng, được dán dính vào khẩu trang chứa 02 gói nylon hàn kín chứa tinh thể không màu do L dùng tay phải ném xuống đất, 01 xe môtô biển số 54Y8-6354; 02 điện thoại di động. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã đưa L, Q cùng vật chứng về trụ sở lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. 

T hành khám xét nhà Lê Thị Thu L tại nhà không số, đường 11, khu phố Q, phường TT, quận X, Thành phố Hồ Chí Minh, Cơ quan Cảnh sát điều tra thu giữ 01 chiếc hộp bằng thiếc hiệu Royal trong tủ, bên trong hộp thiếc gồm có: 01 cân điện tử màu đỏ, trắng hiệu Marllouno; 01 miếng decal màu vàng, trắng, kích thước 20x40cm; 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng, cắt nhọn 01 đầu, kích thước 12cm bên trong không chứa gì; 01 lưỡi dao rọc giấy bằng kim loại; 02 gói nylon dán 01 đầu bên trong không chứa gì.

Kết luận giám định số 204/KLGĐ-H ngày 03/01/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

+ Tinh thể không màu trong 02 gói nylon hàn kín được dán trên 01 miếng decal màu vàng trắng (trong 01 khẩu trang y tế màu xanh) được niêm phong có chữ ký ghi tên Lê Thị Thu L và hình dấu Công an phường Đ, quận X gừi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng l,9958g, loại Methamphetamine. 

Lê Thị Thu L là người nghiện ma túy đá từ tháng 02/2015, L bắt đầu bán ma túy cho các người nghiện từ tháng 10/2016 cho đến ngày bị bắt nhằm mục đích có ma túy để sử dụng và kiếm tiền tiêu xài. Hàng ngày, L bán một gói ma túy với giá 100.000 đồng - 300.000 đồng, nếu người nghiện là người quen thì đến nhà của L tại nhà không số đường 11, khu phố Q, phường TT, quận X, Thành phố Hồ Chí Minh để mua ma túy sau đó sử dụng tại chỗ, nếu người nghiện là người lạ thì liên hệ với L qua số điện thoại di động 01203706299, L sẽ hẹn địa điểm để mua bán ma túy. Số ma túy bị thu giữ do L mua của 01 người đàn ông tên “Bo” không rõ lai lịch tại khu vực Cầu D, quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh với giá 1.800.000 đồng/02 gói vào lúc 11 giờ ngày 22/12/2016. Trên đường đi về, Q (tên khác: T) điện thoại cho L hỏi mua 01 gói ma túy với giá 2.000.000 đồng. L đồng ý và điều khiển xe mô tô đến điểm hẹn với Q tại trước cây xăng 27/7, trong lúc chưa kịp bán ma túy cho Q thì L bị bắt như đã nêu trên. L đã bán ma túy cho Q được 05 lần với giá 200.000 đồng/1 gói, lần thứ 06 chưa kịp bán thì bị bắt, phù hợp với lời khai và biên bản đối chất của Q. Số tiền thu lợi do bán ma túy được 200.000 đồng/1 ngày, L đã tiêu xài hết.

Quá trình truy xét, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã mời 02 người nghiện đã mua ma túy của L về Cơ quan cảnh sát Điều tra làm việc gồm:

1. Trần Tuấn D khai nhận: D là người nghiện, D đã mua ma túy của L được 06 lần sau đó sử dụng luôn tại nhà của L với giá từ 100.000 đồng - 200.000 đồng/1 gói. Khoảng 13 giờ ngày 22/12/2016, D đến nhà L tìm mua ma túy thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra mời về làm việc. Lời khai của D phù hợp với lời khai của L và biên bản đối chất.

2. Quá trình điều tra ban đầu, Lê Thị Thu L khai nhận có bán ma túy cho một người đàn ông tên A. Qua xác minh, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã mời Diệp Tuấn A đến trụ sở làm việc, A đã nhận dạng và khai nhận Lê Thị Thu L chính là người đã bán ma túy cho A được 04 lần với giá 300.000 đồng/1 gói tại nhà của L và gần nhà của A. Ngày 22/12/2016, A có liên lạc với L để mua ma túy thì biết tin L đã bị bắt.

Ngoài ra, trong lúc khám xét nhà Lê Thị Thu L, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã mời 02 người liên quan đang có mặt tại nhà của L đến Cơ quan Cảnh sát điều tra làm việc gồm:

1. Lê Văn P (anh ruột của L) khai nhận: P là người nghiện ma túy và hay sử dụng chung ma túy với những người nghiện tại nhà của L, P có biết việc L bán ma túy nhưng không tham gia, kết quả kiểm tra P D tính với ma túy.

2. Nguyễn Ngọc T (bạn trai của L) khai nhận: T là người nghiện ma túy và thường mua ma túy về nhà của L để sử dụng chung, T không biết việc L bán ma túy, kết quả kiểm tra T D tính với ma túy.

Vât chứng của vụ án:

- 01 gói niêm phong ghi vụ số 204/KLGĐ-H bên ngoài có chữ ký của Giám định viên Phan Thị Khánh, bên trong là mẫu vật còn lại sau giám định;

- 01 cân điện tử màu đỏ, trắng hiệu Marllouno; 01 miếng decal màu vàng, trắng, kích thước 20x40cm; 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng, cắt nhọn 01 đầu, kích thước 12cm bên trong không chứa gì; 01 lưỡi dao rọc giấy bằng kim loại;

02 gói nylon dán 01 đầu bên trong không chứa gì;

- 01 điện thoại di động màu trắng hiệu Mobiistar, số sim 01203706299 thu giữ của L, dùng để liên lạc bán ma túy;

- 01 điện thoại di động màu đen hiệu Nokia, số sim 0937321617 thu giữ của Q, dùng để liên lạc mua ma túy;

- 01 xe môtô hiệu Attila, màu trắng, biển số 54Y8-6354; số máy: VMVT5AD-028128; số khung: ED8D028128. Xác minh chiếc xe trên do chị Nguyễn Thị Thanh Th đứng tên chủ sở hữu, năm 2014, chị Th bán chiếc xe trên cho 01 người đàn ông (không rõ lai lịch) không làm thủ tục sang tên. Ngày 17/8/2016, L mua chiếc xe trên tại cửa hàng xe máy mua bán xe máy “Thành Nhựt” nhưng chưa làm thủ tục sang tên sau đó sử dụng bán ma túy thì bị bắt;

Đối với Trần Tuấn D, Võ Duy Q, Lê Văn P, Nguyễn Ngọc T là những người nghiện, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định xử phạt hành chính, chuyển về địa P xử lý theo Nghị định của Chính phủ.

Tại bản Cáo Trạng số 86/CT-VKS ngày 07/3/2018 của Viện kiểm sát nhân dân quận X truy tố bị cáo Lê Thị Thu L về tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo cho rằng bản thân không thực hiện hành vi mua bán ma túy, cơ quan công an không thu giữ ma túy của bị cáo khi xét nhà, còn những người đối chất với bị cáo thì bị cáo không biết là ai.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 95/2018/HS-ST ngày 24/4/2018 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt: bị cáo Lê Thị Thu L 08 (Tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 22/12/2016 đến ngày 29/12/2016.

Ngoài ra, Bản án hình sự sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, nghĩa vụ nộp án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 07/5/2018, bị cáo Lê Thị Thu L có đơn kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ Bản án sơ thẩm vì bị cáo không phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 28/6/2018, bị cáo Lê Thị Thu L giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và trình bày: Vào ngày 22/12/2016, bị cáo gọi điện thoại cho người tên Bo đến cây xăng 27/7, đường CVK, quận X để mua ma túy do Bo mang đến, tuy nhiên L chưa kịp mua thì bị Công an bắt quả tang thu giữ ma túy được gói trong khẩu trang y tế. Bị cáo xác định khi bắt quả tang không thu giữ chiếc điện thoại di động nào, tại giai đoạn thu thập các bản tự khai và bản lấy cung tại Công an quận X thì không có người chứng kiến. Do cần kiểm tra, làm rõ thêm một số chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử ra Quyết định hoãn phiên tòa, đồng thời ấn định thời gian mở phiên tòa lại vào ngày 16/7/2018.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Lê Thị Thu L giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và trình bày: Bị cáo vẫn giữ nguyên kháng cáo và khẳng định bị cáo không phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, ngày 22/12/2016 bị cáo đi mua ma túy của Bo về để sử dụng với anh trai là P, ban trai là T và một đối tượng tên D, nhưng chưa kịp mua bán thì bị bắt.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa đưa ra ý kiến phát biểu: Tại biên bản phiên tòa sơ thẩm bị cáo khai khi bị bắt Cơ quan điều tra có thu giữ của bị cáo số tiền là 6.000.000 đồng và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo vẫn khẳng định cơ quan điều tra thu giữ số tiền là 6.000.000 đồng, song bản án sơ thẩm, cũng như các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đều không thể hiện và làm rõ việc có thu giữ của bị cáo số tiền này hay không. Việc Cơ quan điều tra T hành đối chất giữa bị cáo với Vũ Duy Q và Trần Tuấn D ngày 22/12/2016 khi các đối tượng khai giống nhau trước khi bị cáo bị khởi tố vụ án, khởi tố bị can, nhưng sau đó có mâu thuẫn về lời khai, nhưng cơ quan điều tra lại không T hành đối chất lại để làm rõ mâu thuẫn. Ngoài ra các biên bản đối chất đều thể hiện có người chứng kiến là Nguyễn Thị Tuyết M ký tên, ghi tên tại phần cuối biên bản, song đầu văn bản đều không thể hiện thông tin nào về nhân thân của người chứng kiến. Từ đó đại diên Viển kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị hủy bản án sơ thẩm và giao cho cấp sơ thẩm điều tra, xét xử lại theo thủ tục chung.

Bị cáo Lê Thị Thu L tranh luận với đại diện Viện Kiểm sát và để nghị Hội đồng xét xử xem xét lại tội danh đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Ngày 24/4/2018, Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm, đến ngày 07/5/2018, bị cáo Lê Thị Thu L có đơn kháng cáo xin xem xét lại bản án sơ thẩm vì bị cáo không thực hiện hành vi phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đơn kháng cáo của bị cáo được lập trong trong thời hạn luật định nên hợp lệ.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 28/6/2018 và tại phiên tòa hôm này, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo không thừa nhận đã thực hiện hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận X đã truy tố và Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức đã xét xử.

[3] Qua nội dung thẩm vấn công khai tại các phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Tại phiên tòa ngày 28/6/2018 và phiên tòa hôm nay, bị cáo L đều trình bày: Vào ngày 22/12/2016, bị cáo gọi điện thoại cho người tên Bo đến cây xăng 27/7, đường CVK, quận X để mua ma túy do Bo mang đến với số tiền là 1.800.000 đồng, mục đích bị cáo mua ma túy để cùng anh trai là P, ban trai là T và đối tượng tên D sử dụng tại nhà của bị cáo, tuy nhiên L chưa kịp mua thì bị Công an bắt quả tang thu giữ ma túy được gói trong khẩu trang y tế. Bị cáo xác định khi bắt quả tang không thu giữ chiếc điện thoại di động nào, tại giai đoạn thu thập các bản tự khai, biên bản lấy lời khai và bản lấy hỏi cung bị can ngày02/01/2017, ngày 10/02/2017 và ngày 16/7/2017 tại Công an quận X thì đầu văn bản không thể hiện được thông tin về nhân thân, lai lịch của người chứng kiến, người tham gia hỏi cung là kiểm sát viên, nhưng cuối các văn bản lại có người chứng kiến ký, ghi tên và người tham gia hỏi cung kiểm sát viên ký, ghi tên là vi phạm nghiêm trọng về tố tụng. Mặt khác tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm bị cáo đều có khai Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo số tiền là 6.000.000 đồng nhưng không được thể hiện trong hồ sơ, cũng như bản án sơ thẩm về việc có hay không số tiền này là có thiếu sót không thể khắc phục được trong phiên tòa phúc thẩm.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì: “Trường hợp người tham gia tố tụng không biết chữ thì người lập biên bản đọc biên bản cho họ nghe với sự có mặt của người chứng kiến. Biên bản phải có điểm chỉ của người tham gia tố tụng và chữ ký của người chứng kiến”. Theo lý lịch của bị cáo Lê Thị Thu L được lập trong hồ sơ vụ án và qua xét hỏi công khai tại phiên tòa, có căn cứ để xác định bị cáo không biết chữ nhưng tại Biên bản bắt người phạm tội quả tang, cũng như các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can… đều không có dấu điểm chỉ của bị cáo, đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng được quy định như trên.

Theo biên bản ghi lời khai ngày 22/12/2016 đối với Lê Văn P có nội dung P đã khai như sau: “…Tôi nghe mẹ tôi nói L bán ma túy…”, song cơ quan điều tra chưa lấy lời khai của mẹ bị cáo để làm rõ tình tiết này. Đồng thời khi đối chất giữa bị cáo L và Q, D ngày 22/12/2016 trước khi bị cáo bị khởi tố vụ án và sau khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can có mâu thuẫn, song cơ quan điều tra không đối chất lại, tại phiên tòa không thể triệu tập được đối tượng tên Q, D đến phiên tòa nên không thể đối chất, nên không thể khắc phục được.

Từ những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử nhận định đây là lỗi vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, cũng như về đường lối xét xử mà Hội đồng xét xử phúc thẩm không thể khắc phục được tại phiên tòa Phúc thẩm, do đó cần quyết định hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 95/2018/HS-ST ngày 24/4/2018 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh để điều tra, truy tố, xét xử lại theo quy định của pháp luật. Do Bản án bị hủy nên Hội đồng xét xử không xem xét, đề cập đến yêu cầu kháng cáo của bị cáo L.

[4] Lập luận trên đây cũng là căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa.

[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do án sơ thẩm bị hủy, nên bị cáo không phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 355; Điều 358 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

1. Hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 95/2018/HS-ST ngày 24/4/2018 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh để điều tra, truy tố xét xử lại theo các quy định của pháp luật.

Chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân quận X, Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết lại từ giai đoạn điều tra theo thủ tục chung.

2. Tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” đối với bị cáo Lê Thị Thu L cho đến khi Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý lại hồ sơ vụ án.

3. Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

385
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 278/2018/HS-PT ngày 16/07/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:278/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về