TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 277/2020/HNGĐ-ST NGÀY 25/09/2020 VỀ LY HÔN
Ngày 25 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 1279/2020/TLST-HNGĐ, ngày 25 tháng 5 năm 2020 về việc “ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 239/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 8 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 299/2020/QĐST-HNGĐ ngày 04/9/2020, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thu Tr, sinh năm 1983.
Địa chỉ thường trú: khu phố S, phường B, thành phố H, tỉnh Đồng Nai.
Địa chỉ tạm trú: Tổ 7, khu phố B, phường N, thành phố H, tỉnh Đồng Nai, vắng mặt.
Bị đơn: Ông Lương Sơn T, sinh năm 1976.
Địa chỉ thường trú: khu phố S, phường B, thành phố H, tỉnh Đồng Nai.
Địa chỉ nơi làm việc: tổ 20, khu phố B, phường N, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu Tr trình bày:
-Về quan hệ hôn nhân: Bà Tr và ông Lương Sơn T tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2005, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phú Ngọc, Huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai. Quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc, đến giữa năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã, xung đột, không tôn trọng nhau, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, ông T thường say xỉn, ghen tuông vô cớ, đánh đập bà. Từ tháng 7/2017 đến nay hai vợ chồng đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai nữa. Bà Tr xác định không còn tỉnh cảm với ông T nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn.
-Về con chung: Giữa bà và ông T có 01 con chung là cháu Lương Gia H, sinh ngày 12/11/2007. Ly hôn bà xin được nuôi con, không yêu cầu ông T cấp dưỡng.
-Về Tài sản chung: Bà Tr xác định tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
-Về nợ chung: Bà Tr xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành thủ tục tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng của Tòa án gồm có: Thông báo về việc thụ lý vụ án; Giấy triệu tập; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo kết quả về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ nhưng bị đơn đều vắng mặt nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến và không tiến hành hòa giải giữa các bên đương sự được. Tại phiên tòa hôm nay, ông T vẫn vắng mặt.
Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai:
-Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
-Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Tr. Về con chung: Đề nghị giao cháu Lương Gia H, sinh ngày 12/11/2007 cho bà Tr nuôi, tạm thời ông T không phải cấp dưỡng. Về tài sản chung, nợ chung: Do hiện nay chưa có lời khai của ông T nên không có cơ sở xem xét, giải quyết trong vụ án này. Các đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bằng vụ án khác theo quy định của pháp luật. Về án phí bà Tr phải chịu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Nguyễn Thị Thu Tr khởi kiện tranh chấp ly hôn, bị đơn ông Lương Sơn T có địa chỉ cư trú, làm việc tại tổ 20, khu phố B, phường N, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt; Bị đơn là ông Lương Sơn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về quan hệ hôn nhân:
Bà Nguyễn Thị Thu Tr và ông Lương Sơn T tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2005, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phú Ngọc, Huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai theo Giấy chứng nhận kết hôn số 09, quyển số 02/2005. Căn cứ Điều 9, Điều 11, Điều 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì hôn nhân giữa bà Tr và ông T xác định là hôn nhân hợp pháp. Tòa án căn cứ vào các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có hiệu lực thi hành để giải quyết việc bà Tr xin ly hôn với ông T.
Theo bà Tr thì nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm, ông T thường say xỉn, ghen tuông vô cớ, đánh đập bà, hiện nay hai vợ chồng đã sống ly thân, không ai còn quan tâm đến ai nữa. Qua xác minh tại địa phương thì được biết giữa bà Tr và ông T có xảy ra mâu thuẫn, to tiếng, cãi vã nhau. Từ tháng 5/2017 thì ông T cư trú tại địa chỉ tổ 20, khu phố B, phường N, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, còn bà Tr chuyển đến sinh sống tại tổ 7, khu phố B, phường N, thành phố H, tỉnh Đồng Nai.
Trong quá trình giải quyết vụ án, mặc dù Tòa án đã nhiều lần triệu tập ông T đến Tòa án để tham gia hòa giải, nhưng ông T vắng mặt, nên Tòa án không tiến hành hòa giải được và tại phiên tòa hôm nay ông T vẫn vắng mặt, cho thấy ông T không còn tha thiết với việc hàn gắn đoàn tụ. Từ đó cho thấy tình trạng hôn nhân vợ chồng giữa bà Tr và ông T lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Tr, cho bà Tr được ly hôn với ông T.
[4] Về con chung:
Có 01 cháu tên Lương Gia H, sinh ngày 12/11/2007. ly hôn bà Tr xin được nuôi các con, không yêu cầu ông T cấp dưỡng. Xét thấy, hiện nay cháu H đang ở với bà Tr, qua tham khảo lời khai thì cháu H có nguyện vọng ở với mẹ. Do đó cần giao cháu H cho bà Tr trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con chung, do bà Tr không yêu cầu nên tạm thời ông T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Vì lợi ích của con, trong trường hợp có yêu cầu, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, cấp dưỡng nuôi con.
[5] Về tài sản chung và nợ chung: bà Tr xác định tài sản chung tự thỏa thuận, nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, do ông T vắng mặt, không có lời khai nên không đặt ra xem xét, giải quyết trong vụ án này. Các đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bằng vụ án khác theo quy định của pháp luật.
[6] Về án phí: Bà Tr phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn là 300.000 đồng theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
-Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 235,; Điều 266; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
-Căn cứ Điều 9, Điều 11, Điều 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 59, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 131 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
-Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị Thu Tr.
1.Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Thu Tr được ly hôn với ông Lương Sơn T.
2.Về con chung: Giao cháu Lương Gia H, sinh ngày 12/11/2007 cho bà Tr trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Tạm thời ông T không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà Tr không yêu cầu.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Vì lợi ích của con, trong trường hợp có yêu cầu, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Không đặt ra xem xét, giải quyết. Các đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bằng vụ án khác theo quy định của pháp luật.
4.Về án phí: Bà Nguyễn Thị Thu Tr phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa, theo biên lai thu số 0009224 ngày 22/5/2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa. Bà Tr đã nộp xong tiền án phí.
5.Về quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Thu Tr và ông Nguyễn Thanh T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 277/2020/HNGĐ-ST ngày 25/09/2020 về ly hôn
Số hiệu: | 277/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về