Bản án 277/2018/HSST ngày 25/07/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

 TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 277/2018/HSST NGÀY 25/07/2018  VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 

Ngày 25 tháng 7 năm 2018 tại Hội trường Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 230/HSST ngày 01/02/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trảo An V, tên gọi khác: không; sinh ngày 03/12/1991; đăng ký HKTT và chỗ ở: xóm 7, xã P, thị xã P, tỉnh Thái Nguyên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Trảo Bắc L và bà Nguyễn Thị Th; có vợ là Nguyễn Thị L1; có 02 con; tiền án, tiền sự: không; không bị tạm giữ, tạm giam; có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Anh Chảo Ông Kh, sinh năm: 1996, Địa chỉ: thôn P, xã T, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 12/2017, anh Nguyễn Đức Q, sinh năm 1991 HKTT: xóm 7, xã P, thị xã P, Thái Nguyên, nhờ Trảo An V đăng tin lên mạng xã hội để bán một chiếc xe mô tô nhãn hiệu EXCITER, màu xanh. Sau khi đăng bức ảnh này lên trang mạng mua bán xe mô tô thì anh Chảo Ông Kh đã nhắn tin cho V muốn mua chiếc xe mô tô nêu trên. V hỏi anh Q, thì anh Q không có nhu cầu bán xe nữa. V nói lại với anh Kh là chủ xe không bán xe nữa, nhưng anh Kh vẫn nhờ V hỏi mua hộ một chiếc xe mô tô nhãn hiệu EXCITER. Do V đang nợ nần, nên đã nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tiền của anh Kh để tiêu xài và trả nợ. V đã vào trang Facebook của anh Vương Hồng D, sinh năm: 1995, HKTT: xóm T, xã P, thị xã Phổ Yên, Thái Nguyên, lấy một bức ảnh chụp hình một chiếc xe nhãn hiệu YAMAHA EXCITER, màu xanh, BKS: 20H1-412.50 của anh D đã đăng lên trước đó và gửi bức ảnh này cho anh Kh, V nói chiếc xe mô tô trong bức ảnh là của V, anh Kh đã đồng ý mua chiếc xe mô tô trong hình và hẹn ngày 01/01/2018 sẽ xuống thành phố Thái Nguyên để xem xe và giao tiền. Khoảng 11h30’ ngày 01/01/2018, anh Kh gọi điện thoại cho V nói đã ở thành phố Thái Nguyên. V mượn anh D chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA EXCITER, màu xanh, BKS: 20H1- 412.50, tháo biển kiểm soát xe của anh D ra và lấy biển số xe 20H1-200.55, là biển số xe của ông Trảo Bắc L là bố V, lắp vào xe của anh D, điều khiển xe mô tô của anh D đi đến khu vực cầu vượt Đán, thuộc tổ 11, phường T, TP.Thái Nguyên và gọi anh Kh đến. Anh Kh đến xem chiếc xe mô tô, đồng ý mua xe và đưa cho V 18.500.000 đồng. V cầm tiền rồi cho vào trong ví của mình và nói anh Kh chờ ở quán nước để V đi mua thẻ điện thoại, nhưng thực tế V không đi mua thẻ điện thoại mà đi đến chợ Phú Thái vào quầy bán hàng mã mua một tập giấy màu đỏ, bên trên có ghi “Ngân hàng địa phủ” và “200.000 đồng” gồm có 68 tờ với giá là 20.000 đồng. V lấy hết số tiền 18.500.000 đồng anh Kh vừa đưa và cho toàn bộ tập giấy có chữ “ Ngân hàng địa phủ” vào trong ví rồi quay lại chỗ anh Kh. Anh Kh nói với V biển số xe không giống trong ảnh và muốn V lấy biển số xe trong ảnh đổi lại. V đồng ý và bảo anh Kh ngồi lên xe để V chở đi lấy biển. V điều khiển xe mô tô đèo anh Kh đến cổng trường Cao đẳng thương mại và du lịch Thái Nguyên, V rút chiếc ví màu đen bên trong có để tập giấy có chữ “Ngân hàng địa phủ” đưa cho anh Kh cầm, nói với anh Kh vào quán nước ngồi chờ để V đi lấy biển số xe. Vì đã cầm được ví của V và nghĩ bên trong ví là tiền mà mình đã đưa cho V trước đó, nên anh Kh tin tưởng xuống xe chờ V. V điều khiển xe thẳng về nhà tháo BKS 20H1 – 20055 và lắp BKS 20H1 – 41250 vào xe và mang trả anh D. Số tiền 18.500.000 đồng chiếm đoạt được của anh Kh, V đã tiêu xài cá nhân và trả nợ hết.

Anh Kh ngồi chờ lâu không thấy V quay lại, liền mở chiếc ví mà V đưa, thì phát hiện bên trong ví là một tập giấy có chữ ngân hàng địa phủ và 01 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng. Ngày 10/01/2018 V đã liên hệ với anh Kh, trả toàn bộ số tiền 18.5000.000 đồng cho anh Kh.

Tại Cơ quan điều tra, Trảo An V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Vật chứng của vụ án: 01 (một) chiếc ví giả da màu đen, 68 tờ giấy màu đỏ, bên trên có ghi “ Ngân hàng địa phủ” và 50.000 đồng tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam.

Tại bản cáo trạng số 235/CT-VKSTPTN ngày 18/5/2018 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đã quyết định truy tố Trảo An V về tội " Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà Trảo An V khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như lời khai tại cơ quan điều tra và bản cáo trạng mô tả.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên giữ nguyên bản cáo trạng số 235/CT-VKSTPTN ngày 18/5/2018, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trảo An V phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 174, điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều Bộ luật hình sự, xử phạt Trảo An V từ 9 đến 12 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; về trách nhiệm dân sự: không xem xét; tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 50.000 đồng, tịch thu tiêu hủy vật chứng khác.

Trong phần tranh luận: Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt, xin được cải tạo tại địa phương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, vật chứng thu được và các chứng cứ, tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định Trảo An V đã có hành vi đưa ra thông tin gian dối để bán chiếc xe không thuộc sở hữu của mình, nhằm chiếm đoạt số tiền 18.500.000 đồng của anh Chảo Ông Kh. Hành vi của bị cáo đủ yêu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Bản cáo trạng số 235/CT-VKSTPTN ngày 18/5/2018 của VKSND thành phố Thái Nguyên truy tố Trảo An V về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

Hành vi của bị cáo xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương.

Đối chiếu với các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, sau khi phạm tội đã trả lại toàn bộ số tiền chiếm đoạt cho bị hại, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 Bộ luật hình sự.

Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo có nhân thân tốt, nhất thời phạm tội, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, sau khi phạm tội đã thực sự thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải. Xét không cần cách ly bị cáo khỏi xã hội mà giao cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và lời khai của bị cáo tại phiên tòa, xác định bị cáo không có tài sản, thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: bị cáo đã trả lại toàn bộ số tiền chiếm đoạt cho bị hại, bị hại không có yêu cầu đề nghị gì, nên không xem xét.

Về vật chứng: cần tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 50.000 đồng, tịch thu, tiêu hủy các vật chứng khác.

Bị cáo phải chịu án phí và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 174, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự;

Xử phạt Trảo An V 15 ( mười lăm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 30 ( ba mươi) tháng kể từ ngày tuyên án về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Giao bị cáo Trảo An V cho UBND xã P, thị xã P, tỉnh Thái Nguyên giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2.Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về trách nhiệm dân sự: không xem xét.

4. Về vật chứng: căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 50.000 đồng; tịch thu, tiêu hủy 01 chiếc ví giả da màu đen, 68 tờ giấy màu đỏ, bên trên có ghi “ Ngân hàng địa phủ” .

Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên ngày 14/6/2018; số tiền 50.000 đồng theo ủy nhiệm chi ngày 06/6/2018 giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên.

4. Về án phí: căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Toà án; buộc bị cáo Trảo An V phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt bản án hoặc ngày niêm yết bản án theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 277/2018/HSST ngày 25/07/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:277/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về