TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 277/2018/HNGĐ-ST NGÀY 16/08/2018 VỀ LY HÔN
Ngày 16 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 45/2018/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2018 về việc “Tranh chấp HNGĐ, ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 308/2018/QĐXXST-DS ngày 09/7/2018 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Phan Thị Mộng T; sinh năm 1991.
Cư trú: Tổ 09, ấp M, xã M, Thành phố L, tỉnh An Giang.
Bị đơn: Ông Huỳnh Trường K; sinh năm 1993.
Cư trú: Tổ 02, ấp A, thị trấn A, huyện A, tỉnh An Giang.
(Bà T có mặt, ông K vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và bản tự khai cùng ngày 04/5/2018 cùng với các tài liệu và chứng cứ kèm theo của bà Phan Thị Mộng T trình bày: Hôn nhân giữa bà với ông Huỳnh Trường K tự tìm hiểu, được gia đình hai bên tổ chức đám cưới vào năm 2013, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M vào ngày 24/12/2013. Vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẩn, nguyên nhân bà và ông K bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi nhau, ông K không chăm lo cho gia đình, bà đã khuyên ông K nhiều lần nhưng không được. Bà và ông K ly thân từ tháng 5/2017 đến nay. Trong thời gian ly thân gia đình hai bên có đứng ra hàn gắn nhưng không thành. Do tình cảm không còn nên bà yêu cầu ly hôn với ông K.
Về con chung: Bà và ông K có 01 con chung tên Huỳnh Phan Trường A, sinh ngày 03/3/2014. Từ khi ly thân đến nay cháu A do bà nuôi dạy. Khi ly hôn, bà yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có.
Trong quá trình thụ lý, hòa giải Tòa án đã tiến hành cấp tống đạt cho ông Huỳnh Trường K theo quy định nhưng ông K vẫn không có mặt theo văn bản triệu tập của Tòa án, mặc dù trong quá trình tiến hành tố tụng Tòa án có phân công cán bộ đến tại nhà của ông K làm việc nhưng vẫn không gặp ông K để ghi lời khai.
Chứng cứ thu thập được: Tại biên bản lấy lời khai ngày 23/5/2018 được ông Huỳnh Hồng C cho biết: Ông là cha ruột của Huỳnh Trường K, bà Phan Thị Mộng T là vợ của K. Gia đình hai bên tổ chức đám cưới cho ông K, bà T vào năm 2013. Sau khi đám cưới thì vợ chồng K sống bên chồng tại A. Hiện nay ông K và bà T đã không còn sống chung từ năm 2017 đến nay. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẩn do bà T và ông K thường xuyên cãi nhau, bà T bỏ về nhà cha mẹ ruột sống từ năm 2017 đến nay. Trong thời gian ly thân gia đình hai bên có đứng ra hàn gắn nhưng bà T không đồng ý về sống chung với K. Việc bà T yêu cầu ly hôn với ông K, ông không có ý kiến. Ông K hiện còn đăng ký hộ khẩu thường trú chung nhà với ông tại thị trấn An Phú. Hiện nay ông Khang đi làm thuê, vài tháng về nhà một lần. Việc Tòa án A gởi thông báo thụ lý, thông báo hòa giải, ông là người nhận thay cho K và có nói lại với K nhưng K bận đi làm không về theo giấy mời của Tòa án được.
Tại biên bản xác minh ngày 23/5/2018 được ông Phan Văn H – Phó trưởng ấp A cho biết: Ông Huỳnh Trường K là con ông Huỳnh Hồng C, hiện nay ông K còn đăng ký hộ khẩu thường trú chung với ông C tại thị trấn A. Ông K là chồng của bà Phan Thị Mộng T. Hiện nay thì ông K và bà T không còn sống chung.
Tại Phiên tòa bà T bảo lưu ý kiến. Riêng ông K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử (HĐXX), xét xử vắng mặt ông K theo thủ tục chung.
Quan điểm Kiểm sát viên về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán trong việc ghi lời khai, hòa giải, xác định quan hệ tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng… là hoàn toàn phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Đối với thành phần Hội đồng xét xử không có thành viên nào thuộc đối tượng phải thay đổi, việc xét hỏi tại phiên tòa cũng như thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.
Về nội dung vụ án Kiểm sát viên đề nghị HĐXX:
Về hôn nhân: Bà T, ông K có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M. Xét đây là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, việc mâu thuẫn giữa bà T và ông K không thể hàn gắn nên đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu của bà T được ly hôn với ông K.
Về con chung: Có 01 con chung tên Huỳnh Phan Trường A, sinh ngày 03/3/2014. Hiện nay con chung đang sống với bà T. Bà T yêu cầu được tiếp tục nuôi dạy con chung, không yêu cầu cấp dưỡng. Xét thấy, từ khi ly thân đến nay thì con chung đang sống với bà T. Do đó, để đảm bảo cho sự phát triển tâm sinh lý bình thường và điều kiện sống của con chung nên đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu nuôi con chung của bà T.
Về tài sản chung, nợ chung: Bà T xác định không có. Nếu sau này ông K có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1]Về tố tụng: Bà Phan Thị Mộng T khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Huỳnh Trường K. Đồng thời, ông K cư trú trên địa bàn huyện A. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A.
[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Ông K được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt. HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt ông K theo khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về nội dung: Quan hệ hôn nhân giữa bà T, ông K tự tìm hiểu, có tổ cức đám cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M vào ngày 24/12/2013 theo quy định, được xem là hôn nhân hợp pháp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nên thụ lý, giải quyết theo Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình.
Xét yêu cầu của bà T xin ly hôn với ông K. HĐXX xét thấy thời gian ly thân giữa bà T, ông K đã lâu nhưng cả hai không có giải pháp hàn gắn. Trong thời gian ly thân gia đình hai bên có đứng ra hàn gắn nhưng không thành. HĐXX xét thấy mâu thuẩn của bà T và ông K không thể hàn gắn nên HĐXX chấp nhận ly hôn theo yêu cầu của bà T theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.
[4] Về con chung: Bà T, ông K có 01 con chung Huỳnh Phan Trường A, sinh ngày 03/3/2014. Hiện nay cháu A đang sống với bà T. Bà T yêu cầu tiếp tục nuôi con chung.
Xét thấy, từ khi ly thân đến nay, con chung đang sống với bà T. Do đó, để đảm bảo cho sự phát triển tâm sinh lý bình thường và điều kiện sống của con chung, HĐXX nghĩ nên chấp nhận để cho bà T tiếp tục nuôi dạy con chung là phù hợp.
[5] Về cấp dưỡng: Theo quy định của pháp luật, khi ly hôn bên không nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Bà T không yêu cầu cấp dưỡng nên HĐXX công nhận sự tự nguyện của bà T.
HĐXX cũng giải thích cho các đương sự biết: Bà T cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông K trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.
[6] Về tài sản chung, nợ chung: Bà T xác định không có nên HĐXX không xem xét giải quyết. Nếu sau này các đương sự có yêu cầu thì sẽ khởi kiện bằng một vụ kiện khác.
[7] Về án phí: Bà T là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân. Các bên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; các Điều 147, 227, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm b, khoản 6, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Phan Thị Mộng T.
Về hôn nhân: Bà Phan Thị Mộng T được ly hôn với ông Huỳnh Trường K.
Về con chung: Bà T được tiếp tục nuôi dạy con chung Huỳnh Phan Trường A, sinh ngày 03/3/2014.
Bà T cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông K trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.
Về án phí: Bà Phan Thị Mộng T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, chuyển từ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0002955 ngày 04/5/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A. (bà T đã nộp đủ)
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (16/8/2018) bà T có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Riêng thời hạn này đối với ông K được tính kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản án tại nơi cư trú.
Bản án 277/2018/HNGĐ-ST ngày 16/08/2018 về ly hôn
Số hiệu: | 277/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 16/08/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về