Bản án 277/2017/HSST ngày 27/09/2017 về tội cướp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 277/2017/HSST NGÀY 27/09/2017 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Hôm nay ngày 27.9.2017, tại trụ sở, Toà án nhân dân Quận Hai Bà Trưng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 329/2017/HSST ngày 06.09.2017 đối với bị cáo:

Phạm Duy L; Sinh năm: 1989. Nơi ĐKHKTT: xã Q, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa. Nơi ở: Không xác định. Nghề nghiệp: Tự do. Văn hoá: 12/12. Con ông: Phạm Văn Luận (c). Con bà: Lê Thị Nhung. Danh chỉ bản số 318 ngày 26.05.2017 do công an quận  Hai  Bà  Trưng  cung  cấp. Tiền  án,  tiền  sự:  Không.  Bắt  tạm  giam  ngày 24.05.2017. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại:

Chị Nguyễn Quỳnh A (SN: 1992,  trú tại: phường B, quận H, Hà Nội). Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng cuối tháng 8/2016 do cần tiền nên vợ chồng chị Nguyễn Quỳnh A và anh Ngô Thành L có đến cửa hàng cầm đồ số 63 Trần Đại Nghĩa, quận Hai Bà Trưng - Hà Nội của Phan Hoàng T để vay 30 triệu đồng, lãi suất theo thỏa thuận (có viết giấy vay nợ) thời gian vay 3 tháng thì phải trả cả gốc lẫn lãi. Ngoài số tiền 30 triệu, Ngô Thành L còn vay của T nhiều lần với tổng số tiền là 27 triệu đồng (không viết giấy vay nợ). Quá thời hạn vay nhưng không thấy vợ chồng A trả tiền nên T đã nhắn tin, điện thoại cho A nhiều lần để đòi nợ nhưng không được nên đã đến nhà A ở phường B tìm nhưng không có ai ở nhà. Khoảng 17h ngày 8/1/2017 chị A gọi điện thoại cho T nói sẽ đến cửa hàng cầm đồ 63 Trần Đại Nghĩa gặp T để thống nhất việc trả nợ. Do có việc bận nên T bảo Đỗ Mạnh H là nhân viên làm tại cửa hàng cầm đồ của T về cửa hàng để gặp chị A, khi chị A đến cửa hàng thì H nói với A có việc gì cứ nói với H vì H là quản lý của cửa hàng nhưng A không đồng ý và nói muốn gặp T để nói chuyện. Khoảng 10 phút sau khi T về cửa hàng gặp chị A và hỏi “chồng mày đâu”  chị A trả lời “Chồng em trốn rồi”. T liền chửi chị A “Thế bao giờ thì vợ chồng mày trả tiền tao”, chị A nói với T là sẽ trả 30 triệu tiền vợ chồng A cùng vay còn tiền chồng là L vay thì A không biết và xin T trả mỗi tháng 1 triệu và không trả toàn bộ tiền lãi. H nghe thấy thế liền tiến về phía A dùng tay phải tát 01 cái vào má trái của A và chửi “Tao cho mày suy nghĩ lại”, T tiếp tục nói với A “Tao cho mày suy nghĩ xem mày có vay được tiền của ai không, kể cả người trong gia đình của mày”, A tiếp tục trình bày về hoàn cảnh khó khăn và xin trả dần khoản vay 30 triệu đồng mà vợ chồng A ký giấy vay nợ tiền, còn tiền do chồng A vay thì thì A không giải quyết vì chồng A đã bỏ trốn, hai vợ chồng A sắp ly dị, T đồng ý và hỏi A đang làm gì, ở đâu, lương tháng bao nhiêu tiền, A nói đang làm tại Phòng chăm sóc khách hàng ở 18 Tam Trinh. Lúc này vợ T là Đinh Thu P đi từ trên tầng 2 xuống nên T đã bảo P tìm trên mạng lntenet địa chỉ nơi A làm việc nhưng không tìm thấy sau đó P đi ra ngoài có việc. Thấy A nói dối nên T chửi A “Mày cho thông tin giả à”. Lúc này Phạm Duy L (bạn của H) đến cửa hàng rủ H đi uống nước nhìn thấy A và hỏi T “Có việc gì đấy anh”, Tnói với L “Vợ chồng em này vay tiền anh mà trốn mấy tháng nay, chồng nó vẫn trốn còn vợ thì hôm nay ra nói chuyện xin trả dần mỗi tháng 1 triệu, xin không trả lãi...”. Nghe T nói vậy, L quay sang chửi A “Vợ chồng mày định bùng tiền của anh tao à, chúng mày trốn được thì trốn luôn đi”, L vừa chửi vừa dùng tay trái túm tóc, tay phải tát vào mặt A 2 – 3 cái. Sau đó L dùng tay ấn vào phía dưới cổ làm A ngửa người về phía sau. T hỏi A “Tao cho mày suy nghĩ lại, thế bây giờ mày định trả nợ như thế nào”, A vẫn xin trả dần mỗi tháng 1 triệu đồng, không phải trả lãi. L lấy điện thoại của A và phát hiện ra vợ chồng A vẫn liên lạc với nhau qua tin nhắn Zalo nên tiếp tục túm tóc đập mặt A xuống bàn và dùng cùi trỏ tay đánh vào mặt A. T nói với A phải trả tiền gốc 30 triệu trước ngày l6/01/2017, nếu không trả số tiền 30 triệu đồng tiền gốc thì T sẽ tính lãi từ khi vay tiền đến nay là 27 triệu đồng, tổng cả gốc và lãi là 57 triệu đồng, T xé giấy nợ cũ đi và bảo A điện thoại về cho bố mẹ xin tiền trả nợ nhưng bố mẹ A nói không có tiền, về nhà rồi nói chuyện sau, trong lúc T và A tiếp tục nói chuyện với nhau thì H đi lên tầng 2 ăn cơm. L cũng lên xe má y bỏ đi.

Sau khi sự việc xảy ra chị Nguyễn Quỳnh A đã có đơn xin trình báo tại công an phường Bách Khoa.

Quá trình điều tra Phạm Duy L bỏ trốn khỏi địa phương, cơ quan điều tra đã ra lệnh truy nã đến ngày 22/4/2017 thì Lợi bị bắt.

Tại Cơ quan điều tra Phạm Duy L  đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như dã nêu trên.

Đối với Phan Hoàng T và Đỗ Mạnh H, ngày 29/7/2017 Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng đã xét xử T và H về tội Cướp tài sản, theo điều 133 Bộ luật hình sự.

- Đối với thương tích do Phạm Duy L gây ra, chị Nguyễn Quỳnh A đề nghị không đi giám định và không có yêu cầu gì khác về dân sự.

Tại bản cáo trạng số 252/CT/VKS-HS ngày 25.8.2017 của Viện kiểm sát nhân dân Quận Hai Bà Trưng thì bị cáo Phạm Duy L bị truy tố về tội “Cướp tài sản” quy định tại khoản 1 điều 133 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đã khai tại cơ quan điều tra. Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Kết thúc thẩm vấn, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận Hai Bà Trưng luận tội đối với bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố. Sau khi đánh giá chứng cứ đã đề nghị:

Áp dụng: khoản 1 điều 133, điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Duy L  với mức hình phạt từ 36 tháng tù đến 42 tháng tù.

Về bồi thường dân sự: Người bị hại không yêu cầu bồi thường dân sự.

Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hai Bà

Trưng, thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên toà hôm nay bị cáo khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu trên. Bị cáo nhận tội và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà, là phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, được chứng minh theo biên bản bắt người, biên bản định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hai Bà Trưng. Thấy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 17h30 phút ngày 08/1/2017 tại cửa hàng cầm đồ số 63 phố trần Đại Nghĩa, phường Bách Khoa, quận Hai Bà Trưng - Hà Nội, Phạm Duy L đã có hành vi chửi bới, dùng vũ lực buộc chị Nguyễn Quỳnh A phải trả số tiền 30 triệu đồng cho Phan Hoàng T. Hành vi của bị cáo Phạm Duy L đã phạm tội “Cướp tài sản” theo khoản 1 điều 133 Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản được nhà nước bảo vệ, gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng đến an toàn xã hội, bị nhà nước quy định là tội phạm. Do vậy cần xử lý nghiêm khắc trước pháp luật để giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Xét nhân thân bị cáo Phạm Duy L chưa có tiền án, tiền sự lần đầu bị truy tố xét xử, tại toà bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội. Bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho người bị hại. Người bị hại đã có đơn xin giảm nhẹ hình

phạt cho bị cáo. Nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Về bồi thường dân sự: Người bị hại không yêu cầu bồi thường dân sự nên Tòa án không xét.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo và người bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Từ những nhận định trên!

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên  bố :   Bị cáo Phạm Duy L phạm tội: “Cướp tài sản”

Áp  dụng :   khoản 1 Điều 133, điểm b, p Khoản 1, 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Điều 76, Điều   99, Điều 231, Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết  số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử  phạt :   Phạm Duy L 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24.05.2017.

Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

493
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 277/2017/HSST ngày 27/09/2017 về tội cướp tài sản

Số hiệu:277/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về