TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM
BẢN ÁN 277/2017/HS-PT NGÀY 05/12/2017 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB
Ngày 30/11/2017 và ngày 05/12/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 208/2017/TLPT-HS ngày 06 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Hữu T. Do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hữu T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2017/HS-ST ngày 10 tháng 08 năm 2017 của Tòa án Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
- Bị cáo kháng cáo: Nguyễn Hữu T, sinh năm 1982; nơi ĐKHKTT: Thôn T, xã H, thị xã B, tỉnh Quảng Nam; nơi tạm trú: Số N đường B, phường G, quận C, Tp. Đà Nẵng; nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 9/12; con ông Nguyễn B và con bà Bùi Thị H (cả hai còn sống). Bị cáo có vợ Phạm Thị L và có 01 con sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Nguyễn Hữu T bị VKSND thị xã Điện Bàn truy tố về hành vi phạm tội như sau: Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 09 tháng 11 năm 2016, Nguyễn Hữu T (không có giấy phép lái xe theo quy định) điều khiển xe môtô BKS: 92D1-399.01 đi trên đường ĐT 605 theo hướng Điện Tiến - Điện Hồng. Đến khoảng 14 giờ, T điều khiển xe đến đoạn đường thuộc thôn N, xã H (đoạn đường có biển báo hiệu cảnh báo công trường đang thi công, đoạn đường hẹp bên trái, đi chậm), Nguyễn Hữu T không giảm tốc độ, vượt qua phần đường đang thi công, lấn trái đường nên tông vào ông Nguyễn Văn L đang đi bộ qua đường trên phần đường bên trái theo hướng Điện Tiến - Điện Hồng. Hậu quả ông Nguyễn Văn L bị thương đến ngày 10 tháng 11 năm 2016 thì chết.
Kết quả khám nghiệm hiện trường nơi xảy ra tai nạn xác định: Đoạn đường thẳng, mặt đường nhựa, tầm nhìn không bị che khuất. Công trình cống thoát nước đang thi công bên trái đường (hướng Điện Tiến - Điện Hồng), phần đường thi công rộng 1,4 m, phần đường không thi công rộng 4,6 m.Vết cày không liên tục dài 2,5m theo hướng Điện Tiến - Điện Hồng. Điểm đầu vết cày cách mép đường chuẩn 2,6m. Điểm cuối vết cày tại vị trí tiếp xúc giữa gác để chân bên phải của xe môtô BKS: 92D1-399.01 với mặt đường. Xe môtô BKS: 92D1-399.01 ngã sang phải, đầu xe quay về hướng Điện Hồng, đuôi xe quay về hướng Điện Tiến. Trục bánh trước cách mép đường chuẩn 2,6m, trục bánh sau cách mép đường chuẩn 2,3m.
Căn cứ Bản kết luận Giám định pháp y số: 274/GĐPY.16 ngày 14/11/2016 của Trung tâm Pháp y tỉnh Quảng Nam xác định ông Nguyễn Văn L đã chết vào ngày 10/11/2016 là do tai nạn giao thông xảy ra vào khoảng 14 giờ ngày 09/11/2016 tại đường ĐT 605 thuộc thôn N, xã H, thị xã B gây đa chấn thương, chấn thương sọ não, dập não, tụ máu dưới màng cứng bán cầu não phải lượng lớn, chèn ép não, nhũn não lan tỏa, hôn mê sâu, suy hô hấp, trụy tim mạch không hồi phục.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2017/HSST ngày 10/8/2017 của Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Quảng Nam đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu T phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.
Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 202, các điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu T 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt từ được tính từ ngày bắt giam thi hành án.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 17/8/2017, bị cáo Nguyễn Hữu T có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo với các lý do: Điều kiện gia đình bị cáo quá khó khăn, bị cáo là con út phải phụng dưỡng cha mẹ già. Bị cáo có công việc làm không ổn định, có con còn nhỏ mới 3 tuổi, khi gây tai nạn bị cáo đã vay 100.000.000 đồng để bồi thường cho gia đình người bị hại. Bị cáo mong muốn được hưởng án treo để có điều kiện lo cho gia đình và đi làm kiếm tiền trả nợ, khắc phục hậu quả.
Đại diện Viện kiểm sát tỉnh Quảng Nam tham gia phiên tòa phúc thẩm phát biểu ý kiến: Bản án sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Hữu T 09 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” là phù hợp, đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 248 Bộ luật Tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Hữu T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với bản án sơ thẩm, và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Hữu T khai nhận: Ngày 09/11/2016, Nguyễn Hữu T (không có giấy phép lái xe theo quy định) điều khiển xe môtô biển kiểm soát 92D1-399.01 đi trên đường ĐT 605 theo hướng Điện Tiến - Điện Hồng. Đến khoảng 14 giờ, T điều khiển xe đến đoạn đường thuộc thôn Cẩm Văn Nam, xã Điện Hồng (đoạn đường có biển báo hiệu công trường đang thi công, đoạn đường hẹp bên trái, đi chậm), Nguyễn Hữu T không giảm tốc độ, vượt qua phần đường đang thi công, lấn trái đường nên tông vào ông Nguyễn Văn L đang đi bộ qua đường trên phần đường bên trái theo hướng Điện Tiến - Điện Hồng. Hậu quả ông Nguyễn Văn L bị thương đến ngày 10 tháng 11 năm 2016 thì chết.
[2] Xét lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn giao thông, kết luận giám định pháp y về nguyên nhân chết người và các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi điều khiển xe mô tô tham gia giao thông, không có giấy phép lái xe theo quy định, lái xe chạy với tốc độ nhanh, lấn sang phần đường bên trái, dẫn đến gây tai nạn, hậu quả làm một người chết nên bản án hành sự sơ thẩm số 45/2017/HSST ngày 10/8/2017 của Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam đã kết án bị cáo Nguyễn Hữu T về tội “Vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a, khoản 2, Điều 202 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo về việc xin giảm nhẹ hình phạt cho hưởng án treo thì thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất vụ án, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, áp dụng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự, để làm căn cứ xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu T 9 tháng tù là có căn cứ, đúng pháp luật, mức án thấp, dưới khung hình phạt mà Điều luật quy định. Xét bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho gia đình người bị hại; bị cáo có bà nội là mẹ Bà Việt Nam Anh Hùng, hoàn cảnh gia đình bị cáo thật sự khó khăn, bị cáo hiện là lao động chính trong gia đình, nuôi cha mẹ già và con còn nhỏ; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu; bản thân bị cáo đã có thời gian phục vụ trong quân đội hoàn thành nghĩa vụ quân sự, có chỗ ở ổn định và gia đình bị hại tiếp tục xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Căn cứ vào Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao thì bị cáo có đủ điều kiện để hưởng án treo. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm theo hướng: Giữ nguyên mức hình phạt đồng thời áp dụng Điều 60 của Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách, giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Tạo điều kiện cho bị cáo cải tạo và chăm lo cho gia đình. Thể hiện tính nhân đạo của nhà nước đối với người phạm tội theo điều 60 Bộ luật hình sự, bị cáo phải chịu thời gian thử thách theo quy định.
[4] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[5] Án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên căn cứ Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, thì bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b, khoản 2, Điều 248, khoản 1 Điều 249 Bộ luật Tố tụng hình sự;
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hữu T, sửa bản án sơ thẩm số 45/2017/HSST ngày 10/8/2017 của Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu T phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.
Áp dụng điểm a, khoản 2, Điều 202, các điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46, Điều 47, Điều 60 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu T 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng, tính từ ngày 05 tháng 12 năm 2017.
Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã H, thị xã B, tỉnh Quảng Nam để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.
2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày 05/12/2017).
Bản án 277/2017/HS-PT ngày 05/12/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB
Số hiệu: | 277/2017/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/12/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về