Bản án 276/2020/HS-ST ngày 25/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 276/2020/HS-ST NGÀY 25/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Vào ngày 25 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương, Tòa án nhân dân thành phố T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lýsố: 230/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 261/2020/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 9 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 56/2020/HSST-QĐ ngày 16/9/2020 đối với bị cáo:

Trần Minh T(tên gọi khác: C), sinh năm 1996 tại tỉnh Bình Dương; nơi cư trú: khu phố B, phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn M (đã chết) vàbàNguyễn Thị T, sinh năm 1972; Bị cáo chưa có vợ con;

Tiền án: Ngày 10/10/2019 bị cáo bị TAND thị xã (này là thành phố) D xử phạt 07 (bảy) tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số 326/2019/HS-ST, chấp hành xong ngày 06/02/2020 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bình Dương; Tiền sự:

Không. Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 21/4/2020 đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

- Ông Nguyễn Hoàng Thanh T, sinh năm 1972; nơi cư trú: đường P, Phường A, Quận V, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Ấp N, xã T, thị xã T, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

- Ông Hoàng Văn H, sinh năm 1985; nơi cư trú: khu phố B, phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

2.3. Người cóquyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Bà Lê Thị L, sinh năm 1993; nơi cư trú: xã G, huyện T, tỉnh Nam Định; chỗ ở: khu phố B, phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Ông Lưu Xuân T, sinh năm 1995; nơi cư trú: xã T, huyện X, tỉnh Thanh Hóa; chỗ ở: Tổ B, khu phố M, xã T, thị xã T, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

- Ông Hoàng Văn H, sinh năm 1980; nơi cư trú: Khu phố C, thị trấn G, huyện L, tỉnh Quảng Trị; chỗ ở: Khu phố B, phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Ông Dương Tấn T, sinh năm 1990; nơi cư trú: Thôn A, xã N, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; chỗ ở: khu phố B, phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu cótrong hồ sơ vụ án vàdiễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 00 giờ 15 phút ngày 04/7/2019, Trần Minh T đi ngang qua cửa hàng thiết bị xây dựng M thuộc khu phố B, phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương, do ông Nguyễn Hoàng Thanh T2 làm chủ, thấy cửa phía trước để hở nên đã đi vào cửa hàng M lấy trộm 02 mô tơ loại 03HP 01 pha đem đi tiêu thụ. Đến khoảng 09 giờ 00 phút ngày 04/7/2019, T gặp một người chuyên mua phế liệu dạo đang đi trên đường bán với giá 650.000 đồng và tiêu xài hết số tiền này. Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 06/7/2019, T đem theo 02 máy mô tơ do T trộm cắp ở nơi khác đến cửa hàng thiết bị xây dựng M để hỏi bán. Ông T2 thấy nghi đó là tài sản trộm vì trước đó vào ngày 04/7/2019 tại cửa hàng của ông cũng bị mất trộm 02 máy mô tơ loại 03HP 1 pha, có camera ghi lại hình ảnh người lấy trộm nhìn giống T nên ông T2 trình báo Công an phường C đến mời T về làm việc. Tại cơ quan công an, T khai nhận hành vi của mình vào ngày 04/7/2019 nhưng do không thu hồi được vật chứng nên cơ quan điều tra đã không giam giữ T và thụ lý hồ sơ xác minh xử lý sau. Sau đó, T đã bỏ trốn khỏi nơi sinh sống.

Trong quátrình lẩn trốn, đến ngày 17/4/2020, T chuẩn bị công cụ phương tiện gồm: 01 cây sắt bằng kim loại dài 35cm; 01 cây kìm bằng kim loại dài 18cm, cán màu xanh; 01 cây vít bằng kim loại dài 15cm, cán màu đen bỏ vào bao tải, để lên xe đạp mi ni màu đỏ đi đến tiệm điện thoại N thuộc khu phố B, phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương vào bên trong tiệm lén lút chiếm đoạt tài sản gồm: 01 máy hàn hiệu H màu xanh, 01 ĐTDĐ Iphone 5 màu trắng 32Gb không pin, 01 ổ cứng dung lượng 1TB, 02 cục sạc pin dự phòng, 22 dây cáp sạc điện thoại, 20 miếng dán cường lực, 05 tai nghe điện thoại, 29 sim điện thoại. Sau đó bị cáo T đem bán 15 miếng kính dán cường lực, 05 tai nghe, 02 cục sạc dự phòng cho ông Lưu Xuân T với giá 430.000 đồng. Ông T giao nộp cho Cơ quan Công an 12 miếng kính dán cường lực, 03 tai nghe, số còn lại ông T đã bán cho người không rõnhân thân lai lịch nên Cơ quan Công an không thu hồi được. Bị cáo T đem bán 22 dây cáp sạc điện thoại, 26 sim điện thoại cho ông Hoàng Văn H với giá 450.000 đồng. Ông H giao nộp cho Cơ quan Công an tài sản trên. Bị cáo T đem 01 máy hàn hiệu H màu xanh bán cho ông Dương Tấn T với giá 1.000.000 đồng, ông T3 đã giao nộp chiếc máy hàn trên cho Cơ quan Công an.

Ngày 21/4/2020, T tiếp tục đi tìm tài sản để trộm cắp thìbị tổ tuần tra Công an phường C phát hiện, đưa T về trụ sở cơ quan làm việc. Tại cơ quan Công an, bị cáo T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Vật chứng thu giữ: 01 cây kìm bằng kim loại dài 18 cm, cán màu xanh; 01 xe đạp mini màu đỏ; 01 cây sắt bằng kim loại dài 35 cm; 01 cây vít bằng kim loại dài 15cm, cán màu đen.

Theo Biên bản định giátài sản và kết luận định giá tài sản ngày 29/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã (nay là thành phố) T kết luận kết luận: 02 mô tơ điện loại 03HP 01 pha có giá trị là6.400.000 đồng.

Theo Biên bản định giá tài sản và kết luận định giá tài sản ngày 16/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố T kết luận:

- 01 máy hàn hiệu H trị giá 2.100.000 đồng;

- 01 ĐTDĐ Iphone 5 màu trắng 32Gb không pin trị giá 1.000.000 đồng;

- 01 ổ cứng dung lượng 1 TB trị giá1.600.000 đồng;

- 02 cục sạc pin dự phòng trị giá 500.000 đồng;

- 22 dây cáp sạc điện thoại trị giá 880.000 đồng;

- 20 miếng dán cường lực trị giá 360.000 đồng;

- 05 tai nghe điện thoại trị giá 175.000 đồng;

- 29 sim điện thoại trị giá 1.450.000 đồng. Tổng cộng 8.065.000đồng.

Tổng giátrị tài sản bị cáo đã chiếm đoạt là 14.465.000 đồng .

Bản Cáo trạng số 245/CT-VKS-TA ngày 17 tháng 8 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Trần Minh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố trình bày lời luận tội trong đó có nội dung vẫn giữ nguyên quyết định đã truy tố, đánh giá tính chất mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, xác định:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Bị cáo phạm tội 02 lần trở lên; ngày 10/10/2019 bị cáo bị TAND thị xã (này là thành phố) D xử phạt 07 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số 326/2019/HS-ST, chấp hành xong ngày 06/02/2020 chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội nên thuộc trường hợp tái phạm, đây là các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm g, h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội nên đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Trần Minh T mức hình phạt từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù.

Về xử lývật chứng:

- Đối với 02 mô tơ loại 03HP 1 pha, do bị can Trần Minh T chiếm đoạt, quá trình điều tra xác định là của bị hại Nguyễn Hoàng Thanh T2. Tài sản trên không thu hồi được, ông T2 không yêu cầu bồi thường các tài sản trên nên không đặt ra.

- Đối với 01 máy hàn hiệu Hồng Ký, 01 ĐTDĐ Iphone 5 màu trắng 32Gb không pin, 01 ổ cứng dung lượng 1TB, 02 cục sạc pin dự phòng, 22 dây cáp sạc điện thoại, 20 miếng dán cường lực, 05 tai nghe điện thoại, 29 sim điện thoại, do bị cáo Trần Minh T chiếm đoạt, quá trình điều tra xác định là của bị hại Hoàng Văn H. Riêng 01 ổ cứng dung lượng 1TB bị cáo T đã ném ở ven đường nH không nhớ rõ địa điểm và 01 ĐTDĐ Iphone 5 màu trắng 32Gb không pin đã bán cho một người mua phế liệu nên Cơ quan Công an không thu hồi được. Ông H đã nhận lại các tài sản do ông Lưu Xuân T, Hoàng Văn H, Dương Tấn T mua của bị cáo T không yêu cầu bị cáo T bồi thường gìthêm.

Đối với 01 xe đạp mini màu đỏ là xe của bị cáo Trần Minh T sử dụng làm phương tiện phạm tội nên đề nghị Tòa án thành phố T tuyên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

Đối với: 01 thanh sắt bằng kim loại dài 35cm; 01 cây kìm bằng kim loại dài 18cm, cán màu xanh; 01 cây vít bằng kim loại dài 15cm, cán màu đen là công cụ bị cáo T dùng để thực hiện hành vi phạm tội, đề nghị Tòa án thành phố T tuyên tịch thu tiêu hủy.

Về trách nhiệm dân sự:

Ông Lưu Xuân T, Hoàng Văn H, Dương Tấn T là những người mua tài sản của bị cáo T nhưng không biết đó là tài sản do bị cáo T trộm cắp mà có. Ông T, ông H và ông T3 đã giao lại tài sản đã mua của bị cáo T cho cơ quan điều tra và không yêu cầu bị cáo T bồi thường số tiền mà các ông đã mua tài sản nêu trên nên không đặt ra.

Tại phiên tòa:

Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội giống nội dung Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo ăn năn, hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt để được sớm trở về với gia đình, làm người công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra vàtại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại, tố cáo về các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng làhợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Minh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương đã truy tố trước tòa. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, các chứng cứ, tài liệu cótrong hồ sơ vụ án, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 00 giờ 15 phút ngày 04/7/2019, tại cửa hàng thiết bị xây dựng M thuộc khu phố B, phường C, thị xã(nay làthành phố) T, tỉnh Bình Dương, bị cáo Trần Minh T cóhành vi lén lút chiếm đoạt 02 mô tơ loại 03HP 1 pha trị giá 6.500.000 đồng của bị hại Nguyễn Hoàng Thanh T vàngày 17/4/2020, tiệm điện thoại T thuộc khu phố B, phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương, bị cáo Trần Minh T cóhành vi lén lút chiếm đoạt 01 máy hàn hiệu H, 01 ĐTDĐ Iphone 5 màu trắng 32Gb không pin, 01 ổ cứng dung lượng 1TB, 02 cục sạc pin dự phòng, 22 dây cáp sạc điện thoại, 20 miếng dán cường lực, 05 tai nghe điện thoại, 29 sim điện thoại trị giá 8.065.000 đồng của bị hại Hoàng Văn H. Tổng giátrị tài sản bị cáo đã chiếm đoạt là 14.465.000 đồng. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo Trần Minh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Hành vi của bị cáo lànguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của các bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõhành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác làvi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị trừng trị nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi nên bị cáo đã cố ý thực hiện. Do vậy, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng cho bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội 02 lần trở lên; ngày 10/10/2019 bị cáo bị TAND thị xã(này làthành phố) D xử 07 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số 326/2019/HS-ST, chấp hành xong ngày 06/02/2020 chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội nên thuộc trường hợp tái phạm, đây là các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm g, h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[6] Hình phạt theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát có căn cứ, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về xử lývật chứng:

- Đối với 02 mô tơ loại 03HP 1 pha, do Trần Minh T chiếm đoạt, quá trình điều tra xác định làcủa bị hại Nguyễn Hoàng Thanh T2. Tài sản trên không thu hồi được, ông T2 không có yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với 01 máy hàn hiệu Hồng Ký, 01 ĐTDĐ Iphone 5 màu trắng 32Gb không pin, 01 ổ cứng dung lượng 1TB, 02 cục sạc pin dự phòng, 22 dây cáp sạc điện thoại, 20 miếng dán cường lực, 05 tai nghe điện thoại, 29 sim điện thoại, do bị cáo Trần Minh T chiếm đoạt, quá trình điều tra xác định làcủa bị hại Hoàng Văn H. Riêng 01 ổ cứng dung lượng 1TB bị cáo T đã ném ở ven đường nhưng không nhớ rõ địa điểm và 01 ĐTDĐ Iphone 5 màu trắng 32Gb không pin đã bán cho một người mua phế liệu nên Cơ quan Công an không thu hồi được. Ông H đã nhận lại các tài sản do ông Lưu Xuân T, Hoàng Văn H, Dương Tấn T mua của bị cáo T vàkhông yêu cầu bị cáo T bồi thường gìthêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với 01 xe đạp mini màu đỏ làxe của bị cáo Trần Minh T sử dụng làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 cây sắt bằng kim loại dài 35cm; 01 cây kìm bằng kim loại dài 18cm, cán màu xanh; 01 cây vít bằng kim loại dài 15cm, cán màu đen là công cụ bị cáo T dùng để thực hiện hành vi phạm tội cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về trách nhiệm dân sự:

Ông Lưu Xuân T, Hoàng Văn H, Dương Tấn T lànhững người mua tài sản của bị cáo T nhưng không biết đó là tài sản do bị cáo T trộm cắp màcó. Ông T, ông Hoàn vàông T3 đã giao lại tài sản đã mua của bị cáo T cho cơ quan điều tra vàkhông yêu cầu bị cáo T bồi thường số tiền đã mua các tài sản nêu trên nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phíhình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: - Khoản 1 Điều 173; Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điểm g, h Khoản 1 Điều 52; Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Khoản 2 Điều 106; Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;

- Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Trần Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Trần Minh T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/4/2020.

2. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước 01 xe đạp mini màu đỏ.

- Tịch thu, tiêu hủy 01 cây sắt bằng kim loại dài 35cm; 01 cây kìm bằng kim loại dài 18cm, cán màu xanh; 01 cây vít bằng kim loại dài 15cm, cán màu đen.

(Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 14/8/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T, tỉnh Bình Dương và Chi cục thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí: Bị cáo Trần Minh T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phíhình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo cóquyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người cóquyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt cóquyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 276/2020/HS-ST ngày 25/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:276/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về