Bản án 276/2020/HS-ST ngày 18/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 276/2020/HS-ST NGÀY 18/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 271/2020/TLST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 303/2020/QĐXXST – HS ngày 04/11/2020 đối với các bị cáo:

1/ Họ và tên: Lê Quang L (Tên gọi khác: G), sinh ngày 28/5/1993. Tại: Bình Dương. Nơi ĐKHKTT: phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương. Trình độ học vấn:

8/12. Nghề nghiệp: Không; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Lê Quang Tr và bà Bùi Hồng N; Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 21/5/2020 và tạm giam cho đến nay; Có mặt.

2/ Họ và tên: Đỗ Hoàng Trọng N, sinh ngày 17/11/1989. Tại: Bình Dương. Nơi ĐKHKTT: phường Đ, thành phố M, tỉnh Bình Dương. Trình độ học vấn: 8/12. Nghề nghiệp: Buôn bán; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Đỗ Hoàng V và bà Đào Thị T; Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 21/5/2020 và tạm giam cho đến nay; Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Đỗ Hoàng H, sinh năm 1986. Địa chỉ: phường Đ, thành phố M, tỉnh Bình Dương; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Quang L, và Đỗ Hoàng Trọng N là bạn bè quen biết nhau và cùng là đối tượng nghiện ma túy.

Khoảng 19 giờ 45 phút ngày 21/5/2020, trong lúc Đỗ Hoàng Trọng N đang ở nhà tại địa chỉ phường Đ, thành phố M, tỉnh Bình Dương thì N nảy sinh ý định mua ma túy về sử dụng. Thực hiện ý định trên, N sử dụng điện thoại di động hiệu Samsung của Nghĩa có số thuê bao 0399.919.xxx để gọi tới số thuê bao 0982.473.xxx của Lê Quang L để hỏi mua ma túy đá (Methamphetamine) thì L hẹn N đến nhà L tại địa chỉ phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương để lấy ma túy và đưa tiền. Sau đó, N điều khiển xe mô tô kiểu dáng Dream, biển số 51Z2-71xx đi đến nhà L. Tại đây, N đưa cho L số tiền 100.000 đồng thì L đưa cho N 02 gói nylon miệng hàn kín, bên trong có chứa chất ma túy. Sau khi mua được ma túy, N cất giấu 02 gói ma túy vào trong ví tiền rồi bỏ vào túi quần phía trước bên phải và chạy xe về nhà. Khi N vừa điều khiển xe mô tô biển số 51Z2-71xx về đến trước cổng nhà tại địa chỉ phường Đ, thành phố M, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng tuần tra thuộc Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế và Ma túy – Công an thành phố Thủ Dầu Một trên đường tuần tra phát hiện N có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra thì phát hiện N có hành vi tàng trữ 02 gói nylon miệng hàn kín, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng và N khai nhận đó là ma túy đá (Methamphetamine) do N vừa mua của Lê Quang L để nhằm mục đích sử dụng nên lực lượng Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đỗ Hoàng Trọng N về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy và thu giữ số vật chứng, gồm: 02 gói nylon miệng hàn kín, chứa chất tinh thể màu trắng (đã được niêm phong):

01 xe mô tô kiểu dáng Dream, biển số 51Z2-71xx; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung có số thuê bao 0399.919.xxx.

Cùng ngày 21/5/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Thủ Dầu Một ra Lệnh khám xét khẩn cấp nhà phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương của Lê Quang L thì phát hiện và thu giữ số vật chứng, gồm: 01 cân điện tử màu đen, nhãn hiệu AWS; 01 kéo kim loại màu trắng dài khoảng 15 cm; 01 gói nylon miệng kéo dính kích thước 03 cm x 07 cm bên trong không có gì; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; 01 điện thoại di động hiệu Sony, màu vàng có số thuê bao 0982.473.xxx. Cùng ngày 21/5/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Thủ Dầu Một ra Lệnh giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Lê Quang L để làm rõ hành vi có dấu hiệu phạm Tội mua bán trái phép chất ma túy.

Quá trình điều tra, Lê Quang L khai nhận: L mua ma túy đá của người nam tên G (không xác định được nhân thân và địa chỉ cư trú) ở khu vực trường lái xe A, địa chỉ tại phường Đ, thành phố M, tỉnh Bình Dương. L mua ma túy đá của người nam tên G được 04 lần, lần ít nhất là mua với số tiền 600.000 đồng, lần nhiều nhất là mua với số tiền 2.000.000 đồng. Lần gần nhất mua vào ngày 20/5/2020 với số tiền 900.000 đồng. Số ma túy đá sau khi mua về, L để sử dụng và do N có nhu cầu muốn mua ma túy để sử dụng nên L đã bán lại cho N. Từ tháng 03/2020 đến ngày 21/5/2020, L và N đều xác định L đã 03 lần bán trái phép chất ma túy cho N tại nhà của L ở phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương, mỗi lần bán với số tiền 100.000 đồng, lần thứ nhất vào khoảng đầu tháng 3/2020, lần thứ hai vào khoảng đầu tháng 4/2020 và lần thứ ba vào ngày 21/5/2020.

Ngày 28/5/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương có Bản kết luận giám định số 313/MT-PC09, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng chứa trong 02 (một) gói nylon miệng hàn kín hàn kín (M1, M2) được niêm phong trong 01 (một) bì thư có chữ ký của người bị bắt Đỗ Hoàng Trọng N, cán bộ niêm phong Hồ Nhật P và hình dấu đỏ của Công an phường Đ, thành phố M, tỉnh Bình Dương là ma túy, khối lượng: 0,1119 gam, loại Methamphetamine. Khối lượng hoàn lại sau giám định 0,0658 gam (đã được niêm phong). Số ma túy hoàn lại sau giám định nêu trên và số vật chứng khác gồm 01 cân điện tử màu đen, nhãn hiệu AWS; 01 kéo kim loại màu trắng dài khoảng 15 cm; 01 gói nylon miệng kéo dính kích thước 03 cm x 07 cm; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một đã ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một để đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một quyết định tịch thu, tiêu hủy.

Đối với 01 xe mô tô kiểu dáng Dream biển số 51Z2-71xx, quá trình điều tra xác định: Căn cứ Phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ số 728 ngày 26/5/2020 và số 832 ngày 19/6/2020 của Phòng Cảnh sát giao thông (PC08) Công an tỉnh Bình Dương xác định không tìm thấy dữ liệu tra cứu liên quan đến xe mô tô trên. Quá trình điều tra, anh Đỗ Hoàng H, sinh năm 1986, cư trú tại phường Đ, thành phố M, tỉnh Bình Dương (anh H là anh của N) khai nhận xe mô tô trên là của anh H mua của một người nam không rõ nhân thân lai lịch, khi mua bán không làm giấy tờ sang tên theo quy định, quá trình sử dụng xe anh H đã làm mất Giấy chứng nhận đăng ký xe. Ngày 21/5/2020, anh H cho N mượn xe để đi công việc, việc N sử dụng xe để đi mua ma túy anh H không biết. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một đã tiến hành đăng báo truy tìm chủ sở hữu đối với xe mô tô trên nhưng chưa có kết quả. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một để đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một xử lý theo quy định.

Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung có số thuê bao 0399919151 thu giữ của Đỗ Hoàng Trọng N, quá trình điều tra xác định: Điện thoại trên là tài sản của Nghĩa, không liên quan đến hành vi phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy của Nghĩa nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một để đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một quyết định giao trả cho Nghĩa.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sony, màu vàng có số thuê bao 0982.473.xxx thu giữ của Lê Quang L, quá trình điều tra xác định: Điện thoại trên là công cụ để L thực hiện hành vi phạm Tội mua bán trái phép chất ma túy nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một để đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một quyết định tịch thu, sung quỹ nhà nước.

Đối với người nam tên G có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Lê Quang L, do quá trình điều tra L khai không biết rõ họ tên và địa chỉ cư trú của người nam tên G nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Thủ Dầu Một tiếp tục xác minh, điều tra làm rõ và xử lý sau khi có đủ căn cứ.

Cáo trạng số 272/CT-VKS-HS ngày 12/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo Lê Quang L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017; truy tố bị cáo Đỗ Hoàng Trọng N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017, xử phạt bị cáo Lê Quang L mức hình phạt từ 07 năm đến 08 năm tù.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017, xử phạt bị cáo Đỗ Hoàng Trọng N từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù.

Về biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong có chữ ký người bị bắt Đỗ Hoàng Trọng N, cán bộ niêm phong Hồ Nhật P và hình dấu đỏ công an phường Đ, thành phố M, bên trong có 02 gói nylon M1 và M2 chứa tinh thể màu trắng là Methamphetamine, trọng lượng sau giám định 0,0542 gam M1 và 0,0116 gam M2 (Theo kết luận giám định số 313/MT-PC09 ngày 28/5/2020); 01 (một) cân điện tử máu đen nhãn hiệu AWS; 01 (một) kéo kim loại màu trắng dài khoảng 15cm; 01 (một) gói nylon miệng kéo dính bên trong không có gì kích thước 03 cm x 07cm; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá. Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu Samsung màu đen, có sim số 0982 473xxx, số Imei: 6A01B000116400; 01 (một) xe mô tô loại xe hai bánh đã qua sử dụng loại Dream, được gắn biển số 51Z2 – 71xx, số máy HD1P50FMH01001135, số khung LH4XCG168X2Y3002677 theo phiếu giám định phương tiện giao thông số 272/SKSM-PC09 ngày 29/5/2020 (không kiểm tra chi tiết, tình trạng hoạt động). Trả cho Đỗ Hoàng Trọng N 01 (một) điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu Sony màu vàng có sim số 0399 919xxx, số Imei: 359046/08/438952/7 (không kiểm tra chi tiết, tình trạng hoạt động). Buộc Lê Quang L nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) thu lợi bất chính sung ngân sách nhà nước.

Tại phiên tòa, các bị cáo đều không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng, các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can, biên bản niêm phong, kết luận giám định cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ tháng 03/2020 đến ngày 21/5/2020, Lê Quang L đã nhiều lần mua chất ma túy từ đối tượng tên G (không rõ nhân thân, lai lịch) sau đó mang về nơi cư trú nhằm bán lại cho các đối tượng nghiện. Trong đó Đỗ Hoàng Trọng N đã 03 lần mua chất ma túy từ L với giá tiền 100.000đ/lần. Đối với Đỗ Hoàng Trọng N, ngày 21/5/2020 đã mua chất ma túy là Methamphetamine (có khối lượng 0,1119 gam) từ L nhằm mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang. Do đó, hành vi mà các bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 đối với Lê Quang L và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 đối với Đỗ Hoàng Trọng N.

Các bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố các bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi mà các bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy. Hiện nay, tình hình nghiện hút chất ma túy đang diễn ra phức tạp trong mọi tầng lớp. Tệ nạn này là mối quan tâm của toàn xã hội, một trong những nguyên nhân dẫn đến tệ nạn này chưa được đẩy lùi chính là có sự tiếp tay của các bị cáo. Do đó, đối với các bị cáo cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà mỗi bị cáo đã thực hiện, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội. Trong vụ án này, các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mang tính độc lập, mỗi bị cáo phạm vào một tội khác nhau. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ váo nhân thân, hành vi của từng bị cáo mà có mức hình phạt phù hợp.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên toà, các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Căn cứ vào nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[6] Về biện pháp tư pháp: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong có chữ ký người bị bắt Đỗ Hoàng Trọng N, cán bộ niêm phong Hồ Nhật P và hình dấu đỏ công an phường Đ, thành phố M, bên trong có 02 gói nylon M1 và M2 chứa tinh thể màu trắng là Methamphetamine, trọng lượng sau giám định 0,0542 gam M1 và 0,0116 gam M2 (Theo kết luận giám định số 313/MT-PC09 ngày 28/5/2020); 01 (một) cân điện tử màu đen nhãn hiệu AWS; 01 (một) kéo kim loại màu trắng dài khoảng 15cm:

01 (một) gói nylon miệng kéo dính bên trong không có gì kích thước 03 cm x 07cm:

01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá. Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu Samsung màu đen, có sim số 0982 473xxx, số Imei: 6A01B000116400; 01 (một) xe mô tô loại xe hai bánh đã qua sử dụng loại Dream, được gắn biển số 51Z2 – 71xx, số máy HD1P50FMH01001135, số khung LH4XCG168X2Y3002677 theo phiếu giám định phương tiện giao thông số 272/SKSM-PC09 ngày 29/5/2020 (không kiểm tra chi tiết, tình trạng hoạt động). Trả cho Đỗ Hoàng Trọng N 01 (một) điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu Sony màu vàng có sim số 0399 919xxx, số Imei: 359046/08/438952/7 (không kiểm tra chi tiết, tình trạng hoạt động). Buộc Lê Quang L nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) thu lợi bất chính sung ngân sách nhà nước.

[7] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 136, 260, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Lê Quang L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị cáo Đỗ Hoàng Trọng N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2/ Về hình phạt:

2.1/ Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Lê Quang L 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/5/2020.

2.1/ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Đỗ Hoàng Trọng N 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/5/2020.

3/ Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong có chữ ký người bị bắt Đỗ Hoàng Trọng N, cán bộ niêm phong Hồ Nhật P và hình dấu đỏ công an phường Đ, thành phố M, bên trong có 02 gói nylon M1 và M2 chứa tinh thể màu trắng là Methamphetamine, trọng lượng sau giám định 0,0542 gam M1 và 0,0116 gam M2 (Theo kết luận giám định số 313/MT-PC09 ngày 28/5/2020); 01 (một) cân điện tử màu đen nhãn hiệu AWS; 01 (một) kéo kim loại màu trắng dài khoảng 15cm; 01 (một) gói nylon miệng kéo dính bên trong không có gì kích thước 03 cm x 07cm; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu Samsung màu đen, có sim số 0982 473xxx, số Imei: 6A01B000116400; 01 (một) xe mô tô loại xe hai bánh đã qua sử dụng loại Dream, được gắn biển số 51Z2 – 71xx, số máy HD1P50FMH01001135, số khung LH4XCG168X2Y3002677 theo phiếu giám định phương tiện giao thông số 272/SKSM-PC09 ngày 29/5/2020 (không kiểm tra chi tiết, tình trạng hoạt động).

- Trả cho Đỗ Hoàng Trọng N 01 (một) điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu Sony màu vàng có sim số 0399 919xxx, số Imei: 359046/08/438952/7 (không kiểm tra chi tiết, tình trạng hoạt động).

- Buộc Lê Quang L nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) sung ngân sách nhà nước.

(Thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng số 009.21 ngày 08/10/2020 giữa Chi cục Thi hành án dân sự và và Công an thành phố Thủ Dầu Một).

4/ Về án phí: Buộc mỗi bị cáo nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

286
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 276/2020/HS-ST ngày 18/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:276/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:18/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về