Bản án 276/2017/HSST ngày 06/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TS, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 276/2017/HSST NGÀY 06/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06/09/2017, tại Tòa án thị xã TS xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 314/2017/HSST ngày 16/08/2017 đối với bị cáo:

Đàm V, sinh năm 1992; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã P, thị xã TS, tỉnh Bắc Ninh; không nghề nghiệp; học phổ thông: 05/12; con ông Đ, sinh năm 1970 và bà D, sinh năm 1974; gia đình có 02 anh em, bị cáo thứ 1; không tiền sự;

Có 01 tiền án: Bản án số 550/2012/HSST ngày 19/12/2012, của Tòa án thành phố Hà Nội xử phạt 7 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản” bị cáo chấp hành xong ra trại ngày 31/08/2015.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/06/2017 đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Viện kiểm sát thị xã Từ Sơn truy tố bị cáo về hành vi sau:

Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 15/06/2017, tại nhà bị cáo ở thôn T, xã P, thị xã TS. Bị cáo Đàm V có hành vi tàng trữ trái phép 09 túi ma túy, trọng lượng là 2,4791 gam chất Methamphetamine và 53 viên nén ma túy, trọng lượng 14,6577gam, chất MDMA.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai: Ngày 10/05/2017 bị cáo đến khu phố T, phường Đ, thị xã TS; mua của một người không quen biết 09 gói ma túy và 53 viên ma túy kẹo với giá 1.000.000đ mang về nhà mục đích để sử dụng thì bị Công an kiểm tra bắt giữ.

Kết luận giám định số 836/KLGĐ-PC54, ngày 15/06/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận:

+ Chất tinh thể màu trắng bên trong phong bì thư ký hiệu M1 có trong lượng 2,4791 gam; Là ma túy; Chất Methamphetamine.

+ 53 viên nén hình tròn màu vàng nhạt, có ký hiệu chữ “K” bên trong phong bì thư có ký hiệu M2 có trọng lượng 14,6577 gam; Là ma túy; Chất MDMA.

Cáo trạng số: 221/CTr-VKS ngày 16/08/2017 của Viện kiểm sát thị xã TS truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa, buộc tội bị cáo về tội đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

- Khoản 1 Điều 194, Điều 33, điểm p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự xử phạt bị cáo: 42 đến 48 tháng tù; tịch thu tiêu hủy vật chứng còn lại sau giám định.

Bị cáo nhận tội, không tham gia tranh luận với Viện kiểm sát mà xin giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét toàn diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát và bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp biên bản phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng, kết luận giám định và vật chứng thu được có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 15/06/2017, tại nhà ở của Đàm V ở thôn T, xã P, thị xã TS.

Bị cáo Đàm V có hành vi tàng trữ trái phép 09 túi ma túy, trọng lượng 2,4791gam chất  Methamphetamine và 53 viên nén trọng lượng 14,6577gam ma túy, chất MDMA, mục đích để sử dụng.

Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây tác hại lớn cho xã hội; ma túy cũng là nguyên nhân phát sinh các tội phạm hình sự khác; bị cáo sử dụng ma túy và nhận thức được tác hại của ma túy, nhưng vì nhu cầu của bản thân bị cáo đã phạm tội. Bị cáo có 01 tiền án: Bản án số 550/2012/HSST ngày 19/12/2012 của Tòa án thành phố Hà Nội xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản”; bị cáo chấp hành xong ra trại ngày 31/08/2015. Theo quy định của pháp luật bản án trên chưa được xóa án tích, lần phạm tội này là tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Do vậy, cần có hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét thấy bị cáo không tiền sự; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ hình phạt, được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tài sản, thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phù hợp.

Tại phiên tòa Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo, đề nghị mức hình phạt là hơi nghiêm khắc so với hành vi của bị cáo.

Người bán ma túy cho bị cáo, do không xác định được tên, tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ xử lý trong vụ án này, khi nào điều tra làm rõ xử lý sau. Chị Nguyễn Thị H có mặt tại nhà bị cáo, do không biết bị cáo tàng trữ ma túy nên không bị xử lý là phù hợp.

Số ma túy còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đàm V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng:

- Khoản 1 Điều 194, Điều 33, điểm p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 41 Bộ luật hình sự;

- Điều 76, Điều 99, khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Nghị quyết số 326/2016/QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án xử phạt bị cáo:

Đàm V 36 tháng tù thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 15/06/2017.

Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định. Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 276/2017/HSST ngày 06/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:276/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về