Bản án 275/2021/HSST ngày 25/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TH, TỈNH TH

BẢN ÁN 275/2021/HSST NGÀY 25/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 6 năm 2021 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố TH, tỉnh TH xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 257/2021/TLST-HS ngày 21 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 235/2021/QĐXXST- HS ngày 27 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Thanh G, tên gọi khác: Không; Sinh năm 1973 tại TH; Nơi cư trú: Tổ Z, phường T, thành phố TH, tỉnh TH; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: Không; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Con ông Trần Văn A, sinh năm 1945 và con bà Nguyễn Thị T (đã chết); Bị cáo có vợ là Phan Thị Thúy H, sinh năm 1972 (đã ly hôn), có 01 con sinh năm 1996; Tiền sự: Không Tiền án: 01. Tại bản án số 83/2019/HSST ngày 22/3/2019 của Tòa án nhân dân thành phố TH xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 19/11/2020.

Nhân thân:

+ Tại bản án số 237/HSST ngày 15/9/1997 của Tòa án nhân dân thành phố TH xử phạt 30 tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Đã thi hành xong phần dân sự ngày 12/8/2011.

+ Tại bản án số 77/2007/HSST ngày 11/5/2007 của Tòa án nhân dân thành phố TH xử phạt 18 tháng tù về tội “Đánh bạc”. Đã thi hành xong phần dân sự ngày 14/8/2013.

Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TH. Bị cáo bị bắt từ ngày 01/3/2021 cho đến nay (Có mặt tại phiên tòa)

* Người chứng kiến: Anh Nguyễn Thành D, sinh năm 1983, trú tại tổ Z, phường T, thành phố TH, tỉnh TH (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 05 phút ngày 01/3/2021, tổ công tác Công an phường T, thành phố TH đang làm nhiệm vụ tại khu vực tổ Z của phường thì phát hiện 01 nam thanh niên có biểu hiện liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, nam thanh niên tự khai tên là Trần Thanh G. Quá trình kiểm tra phát hiện trong vành mũ bên phải G đang đội có 02 gói giấy màu đỏ trắng bên trong chứa chất bột màu trắng (G khai là Heroine) mua về sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với G và niêm phong vật chứng theo quy định.

Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TH tiến hành mở niêm phong cân xác định: Chất bột màu trắng có khối lượng 0,165 gam, lấy toàn bộ cho vào 01 bì niêm phong ký hiệu G1 gửi giám định.

Kết luận giám định số 545/KL - KTHS ngày 10/3/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu G1 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,165 gam.

Tại cơ quan điều tra, lời khai nhận của Trần Thanh G phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai người chứng kiến.

Vật chứng của vụ án:

+ 01 (một) bì niêm phong ký hiệu G1 bên trong chứa 0,145gam ma túy còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu.

+ 01 (một) mũ lưỡi trai màu đen, đã qua sử dụng Cáo trạng số 267/CT-VKSTPTN ngày 20/5/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH truy tố bị cáo Trần Thanh G về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Trần Thanh G khai nhận: Bản thân là đối tượng nghiện ma túy, khoảng 09 giờ 30 phút ngày 01/3/2021, G đi bộ từ nhà đến nhà V (thường gọi là V Hùng, trú tại tổ Z, phường T, thành phố TH) mục đích mua ma túy về sử dụng. Tại đây, G mua 02 gói ma túy là Heroine được gói bên ngoài bằng lớp giấy màu đỏ với giá 100.000đ. Sau khi mua được ma túy, G cất giấu ma túy vào vành mũ lưỡi trai bên phải rồi đội mũ lên đầu và đi bộ về tìm nơi sử dụng thì bị Công an phường T, thành phố TH phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Trong phần luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Trần Thanh G về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 BLHS: Xử phạt Trần Thanh G từ 30 đến 36 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu G1 và 01 mũ lưỡi trai màu đen, đã qua sử dụng.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội danh và điều luật như bản cáo trạng truy tố là không oan, đúng người, đúng tội.

Lời nói sau cùng bị cáo xin được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đều hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng truy tố. Căn cứ vào lời khai của bị cáo, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định cùng các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Hồi 10 giờ 05 phút ngày 01/3/2021 tại tổ Z, phường T, thành phố TH, Trần Thanh G có hành vi tàng trữ 0,165 gam Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường T, thành phố TH phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Hành vi của Trần Thanh G đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy", tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Nội dung điều luật:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a, b...

c, Heroine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05gam.” Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH truy tố bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến các quy định của nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, ma túy còn là hiểm họa cho xã hội, phát sinh các tệ nạn xã hội, làm khánh kiệt về kinh tế, suy kiệt giống nòi, do đó Đảng và Nhà nước ta đã kiên quyết bài trừ tệ nạn này ra khỏi xã hội, bị cáo có đầy đủ nhận thức về tác hại của ma túy nhưng vẫn phạm tội. Hành vi của bị cáo phải xử lý nghiêm bằng pháp luật hình sự để giáo dục riêng và ngăn ngừa tội phạm chung.

[4] Xét về nhân thân các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo có nhân thân rất xấu, đã nhiều lần bị Tòa án xét xử trong đó có xét xử bị cáo về tội ma túy nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà lại tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, điều đó thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo. Tại bản án số 83/2019/HSST ngày 22/3/2019 của Tòa án nhân dân thành phố TH xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 19/11/2020 do đó bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS đó là “Tái phạm”. Tuy nhiên quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn, ăn năn hối cải đã khai nhận hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Mức án mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Tại phiên tòa xác định bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án: 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu G1 (bên trong có chứa 0,145gam mẫu vật còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu G1) cần tịch thu tiêu hủy và 01 mũ lưỡi trai màu đen, đã qua sử dụng vì không còn giá trị sử dụng.

[7] Về án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[8] Về các vấn đề khác: Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, G khai giao dịch mua ma túy qua khe cửa nhà người đàn ông tên V thuộc tổ Z, phường T, nhưng G xác định không nhìn thấy và không biết ai bán ma túy cho G. Cơ quan điều tra Công an thành phố TH tiếp tục điều tra làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Bị cáo Trần Thanh G phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 BLHS: Xử phạt Trần Thanh G 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/3/2021.

Căn cứ vào Điều 329 BLTTHS: Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

Tịch thu tiêu hủy: 01(một) bì niêm phong đúng quy định ký hiệu G1, mặt trước có ghi hoàn trả 0,145 gam mẫu G1 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu G1. Vụ Trần Thanh G, sinh năm 1973. Phạm tội về ma túy. Mặt sau có chữ ký của đ/c Nguyễn Thành T – Cán bộ phòng KTHS Công an tỉnh TH và đ/c Ma Triệu V – Cán bộ Công an TP TH cùng 02 dấu tròn đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH, và 01 (một) mũ lưỡi trai màu đen, đã qua sử dụng.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 398 ngày 24/5/2021giữa Công an thành phố TH và Chi cục thi hành án dân sự thành phố TH, tỉnh TH).

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm nộp vào ngân sách Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

125
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 275/2021/HSST ngày 25/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:275/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về