Bản án 275/2018/HS-ST ngày 24/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 275/2018/HS-ST NGÀY 24/07/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 7 năm 2018 tại hội trường, Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên tiến hành xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 270/2018/ HSST ngày 29 tháng 6 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 269/2018/QĐXXST- HS ngày 03 tháng 7 năm 2018, đối với bị cáo:

Phạm Đăng L, sinh ngày 24/01/1980. ĐKHKTT: Tổ C, phường L, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Văn hóa: lớp 12/12; Nghề nghiệp: Không. Con ông: Phạm Văn K, sinh năm 1953. Con bà: Nguyễn Thị H, sinh năm 1958. Gia đình có 02 anh em, bị cáo là thứ nhất; có vợ là Nguyễn Thị L, sinh năm 1985 (đã ly hôn); có 01 con, sinh năm 2006. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Tại bản án số 78/HSPT ngày 27/10/1999, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Gây rối trật tự công cộng”.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 17/4/2018 đến nay (có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi liên quan:

Chị Hoàng Thanh H, sinh năm 1975, (vắng mặt) HKTT: Tổ G, phường D, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên

Người chứng kiến:

Ông Hà Việt D, sinh năm 1962, (vắng mặt) Trú tại: Tổ T, phường H, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 17 giờ ngày 17/4/2018, tổ công tác của phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Nguyên đang làm nhiệm vụ tại khu vực tổ G, phường ĐQ, thành phố TH phát hiện Phạm Đăng L có biểu hiện nghi vấn liên quan tới ma túy nên đã tiếp cận yêu cầu kiểm tra, thu giữ tại túi quần phía trước bên phải L đang mặc có 01 túi nilon màu trắng, bên trong chứa 09 viên nén màu hồng và 01 túi nilon màu trắng bên trong có các cục chất tinh thể màu trắng, L khai đó là ma túy tổng hợp. Kiểm tra túi quần phía trước bên trái L đang mặc phát hiện thu giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng bạc. Kiểm tra túi quần phía sau bên phải L đang mặc phát hiện, thu giữ 580.000 đồng và 01 chứng minh nhân dân mang tên Phạm Đăng L (đã chuyển lưu vào hồ sơ vụ án). Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với L, thu giữ, niêm phong vật chứng theo quy định. 

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Nguyên tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phạm Đăng L tại tổ I, phường D, thành phố TH. Quá trình khám xét phát hiện, thu giữ: 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng ; 01 cân điện tử vỏ màu đen; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy tự chế; 01 sổ hộ khẩu số 560107598 họ tên chủ hộ là Phạm Đăng L; 01 ổ lưu trữ Camera màu trắng, nhãn hiệu KB VISION.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Nguyên tiến hành mở niêm phong, cân xác định trọng lượng số viên nén màu hồng, chất tinh thể màu trắng và chất bột màu trắng thu giữ của Phạm Đăng L có khối lượng như sau: 09 viên nén màu hồng có khối lượng 0,82 gam; Chất tinh thể màu trắng có khối lượng 01 gam; Chất bột màu trắng có khối lượng 0,08 gam.

Tại bản Kết luận giám định số 601/KL-PC54 ngày 23/4/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận:

- Viên nén màu hồng và chất tinh thể màu trắng thu giữ của Phạm Đăng L là ma túy, loại Methamphetamine.

- Chất bột màu trắng thu giữ của Phạm Đăng L không xác định được là chất gì.

Ngày 02/5/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Nguyên ra Quyết định trưng cầu giám định số 100/MT gửi Viện khoa học hình sự Bộ Công an.

Tại bản Kết luận giám định số 2297/C54 ngày 10/5/2018 của Viện khoa học hình sự Tổng cục Cảnh sát kết luận: Số chất bột màu trắng thu giữ của Phạm Đăng L là ma túy, loại Ketamine, hàm lượng 80,4%.

Vật chứng thu giữ gồm: 580.000 đồng tiền Việt Nam; 04 bì niêm phong ký hiệu L, L1, G, G1; 01 sổ hộ khẩu số 560107598 chủ hộ Phạm Đăng L; 01 cân điện tử màu đen; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng bạc; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh hiện đang được lưu giữ, bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.

- 01 ổ lưu trữ Camera màu trắng, nhãn hiệu KB VISION, quá trình điều tra xác định là tài sản của chị Hoàng Thanh H, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị H quản lý, sử dụng.

Tại Cơ quan điều tra, Phạm Đăng L khai nhận khoảng 15 giờ 30 phút ngày 17/4/2018, tại phòng trọ của Nguyễn Huy M, sinh năm 1976 ở tổ J, phường TĐ, thành phố TH, L mua của M 01 túi nilon màu trắng, bên trong chứa 09 viên nén màu hồng và 01 túi nilon màu trắng bên trong có các cục chất tinh thể màu trắng là chất Methamphetamine với giá 1.400.000 đồng. Đến 17 giờ ngày 17/4/2018, khi L đang đi tìm nơi để sử dụng ma túy thì bị tổ công tác Công an tỉnh Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang như nêu trên.

Đối với số ma túy thu giữ tại chỗ ở của Phạm Đăng L tại tổ I, phường D, thành phố TH, L khai nhận như sau: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 16/4/2018, tại một quán Karaoke (L không nhớ tên thuộc phường Q, thành phố TH) L gặp và mua của 01 người đàn ông không quen biết 01 túi nilon bên trong chứa chất bột màu trắng là Ketamine với giá 800.000 đồng. Mua xong, L cất số Ketamine nêu trên tại chỗ ở của mình để sử dụng cho bản thân.

Ngoài ra, Phạm Đăng L còn khai nhận đã nhiều lần mua ma túy của Nguyễn Huy M, cụ thể:

Lần thứ nhất: Khoảng 16 giờ ngày 14/4/2018, tại phòng trọ của M ở tổ J, phường TĐ, thành phố TH, L mua của M 0,5 gam ma túy tổng hợp dạng đá với giá 350.000 đồng và đã sử dụng hết số ma túy nêu trên.

Lần thứ hai: Khoảng 18 giờ ngày 15/4/2018, cũng tại phòng trọ của M, L mua của M 05 viên ma túy tổng hợp hồng phiến và 0,5 gam ma túy đá với giá 700.000 đồng. Sau đó L đã sử dụng hết số ma túy nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 274/CT-VKSTPTN ngày 28/6/2018, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo Phạm Đăng L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Sau khi công bố cáo trạng, vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên thay đổi điểm truy tố từ điểm c sang điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại cơ quan điều tra cũng như trước phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên. Bị cáo mỗi ngày sử dụng 5 viên ma túy tổng hợp và ½ gam Methamphetamin; Tiền mua ma túy lấy từ tiền giúp việc quán cafe của chị H; chiếc cân điện tử màu đen bị cáo dùng vào việc cân ma túy mỗi khi mua về.

Kết thúc phần xét hỏi, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Đăng L phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt Phạm Đăng L từ 30 tháng đến 36 tháng tù. Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng: xử lý theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 BLTTHS.

- Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. 

Phần tranh luận, bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố, xét xử là không oan, đúng người, đúng tội.

Trong lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử cho hưởng mức án thấp.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cở sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về thủ tục tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về nội dung vụ án: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, vật chứng đã thu giữ, lời khai của người có quyền lợi liên quan, người chứng kiến cùng các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Hồi 17 giờ ngày 17/4/2018, tại khu vực tổ G, phường ĐQ, thành phố TH, Phạm Đăng L đang có hành vi tàng trữ 1,82 gam Methamphetamine 0,08 gam Ketamine để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an tỉnh Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Trong vụ án này bị cáo cất giữ 02 chất ma túy nên phạm phải điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo tội danh và điều luật viện dẫn nêu trên là phù hợp, đúng pháp luật.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy... thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các quy định của nhà nước về quản lý và sử dụng các chất gây nghiện, gây mất trật tự ở địa phương. Hành vi của bị cáo cần phải xử nghiêm minh bằng pháp luật hình sự để giáo dục riêng và ngăn ngừa tội phạm chung.

Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, trong một thời gian ngắn (từ ngày 14/4/2018 đến ngày 17/4/2018) bị cáo nhiều lần mua bán ma túy, số lượng tương đối nhiều, với nhiều loại ma túy khác nhau đem cất trữ trong nhà. Bị cáo còn chuẩn bị cả cân điện tử dùng để cân ma túy; sắm cả bộ dụng cụ sử dụng ma túy để trong nhà... điều đó cho thấy ngoài mục đích mua ma túy để sử dụng cho bản thân, bị cáo còn có mục đích khác.

Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng: Trong vụ án này bị cáo được xác định là chưa có tiền án, tiền sự nhưng nhân thân đã một lần bị xử phạt tù giam về tội Gây rối trật tự công cộng, nhưng không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân, nghiện chất ma túy dẫn đến phạm tội. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa khai báo thành khẩn nên được hưởng một tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Xét nên giảm cho bị cáo một mức án để thấy rõ lượng khoan hồng của pháp luật, tích cực cải tạo tốt, sớm trở về với gia đình và xã hội.

Mức án vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị nêu trên là còn nhẹ.

Trong vụ án này bị cáo khai mua ma túy (Methamphetamine) của Nguyễn Huy M, quá trình điều tra M không có mặt tại địa phương nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ, xử lý sau. Còn số ma túy (Ketamine) bị cáo khai mua của một người đàn ông không quen biết, quá trình điều tra không xác định được nhân thân lai lịch của người này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ làm rõ, xử lý.

Về hình phạt bổ sung: Tại phiên tòa bị cáo khai có thu nhập; bị cáo mua nhiều loại ma túy trong một thời gian ngắn, có biểu hiện của việc làm phi pháp khác nên Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Thu giữ 04 bì niêm phong ký hiệu L, L1, G, G1; 01 cân điện tử màu đen và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, xét đây là công cụ dùng vào việc phạm tội cần tịch thu tiêu hủy.

- Thu giữ 01 sổ hộ khẩu số 560107598 chủ hộ Phạm Đăng L là giấy tờ tùy thân của bị cáo nên hoàn trả để sử dụng. Riêng CMTND mang tên Phạm Đăng L đã trả cho bị cáo tại phiên tòa.

- Thu giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng bạc; 01 điện thoại di động nhãn hiệu  Nokia màu xanh và số tiền 580.000đ (năm trăm tám mươi ngàn đồng) là tài sản của bị cáo, không liên quan đến vụ án cần tạm giữ để thi hành án.

Bị cáo phải chịu án hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt: Phạm Đăng L 42 (bốn mươi hai) tháng tù giam về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 17/4/2018.

Căn cứ khoản 3 Điều 329 BLTTHS Quyết định tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự phạt bị cáo 5.000.000đ (năm triệu đồng) nộp ngân sách nhà nước.

3. Vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 04 bì niêm phong ký hiệu L, L1, G, G1; 01 cân điện tử màu đen và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

- Trả lại cho bị cáo 01 sổ hộ khẩu số 560107598 chủ hộ Phạm Đăng L.

- Tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng bạc; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh và số tiền 580.000đ (năm trăm tám mươi ngàn đồng).

Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng số 304 ngày 11/7/2018 giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên và Ủy nhiệm chi số 74 ngày 28/6/2018 của Kho bạc nhà nước thành phố Thái Nguyên).

4. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí lệ phí tòa án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

Bị cáo, người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày; kể từ ngày tuyên án đối với bị cáo; kê từ ngày người có quyền lợi liên quan nhận được bản sao bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

353
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 275/2018/HS-ST ngày 24/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:275/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:24/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về