Bản án 274/2021/HSST ngày 25/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TN, TỈNH TN

 BẢN ÁN 274/2021/HSST NGÀY 25/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 6 năm 2021 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố TN xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 302/2021/TLST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 271/2021/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thị Bích Th, sinh ngày 09/7/1971 Nơi cư trú tổ dân phố Đ, phường Đ.B, thành phố TN, tỉnh TN. Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không, nghề nghiệp: Không, trình độ học vấn: 8/10. Con ông Nguyễn Văn Th1 (đã chết), con bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1933. Gia đình có 09 anh chị em, bị cáo là con thứ bảy, có chồng Hoàng Quốc T, sinh năm 1969, có 01 con sinh năm 1993.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Nhân thân: Tại bản án số 208 ngày 26/12/1997 của Tòa án nhân dân tỉnh TN xử phạt 07 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Đã chấp hành xong hình phạt tù và thi hành xong án phí, hình phạt bổ sung.

Bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/4/2021 đến nay. (Có mặt tại phiên tòa) Người chứng kiến: Anh Bùi Công Đ, sinh năm 1979, địa chỉ tổ dân phố T.H, phường Đ.B, thành phố TN. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 10 giờ 15 phút ngày 05/4/2021, tổ công tác của Công an phường Đ.B, thành phố TN đang làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát tại khu vực tổ dân phố 2 Ao Voi của phường thì phát hiện một người phụ nữa đang đi bộ có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, người phụ nữ chấp hành và tự khai tên là Nguyễn Thị Bích Th. Quá trình kiểm tra, Th tự giác giao nộp cho tổ công tác từ túi áo bên trái Th đang mặc 01 gói giấy bạc màu vàng, bên trong chứa chất bột màu trắng. (Theo Th khai là ma túy Heroine của Th). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Th và niêm phong thu giữ vật chứng theo quy định.

Cùng ngày, Cơ quan CSĐT Công an thành phố TN tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng: Số chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Thị Bích Th có khối lượng 0,134 gam. Lấy 0,072 gam số chất bột màu trắng trên niêm phong ký hiệu T gửi giám định. Còn lại 0,062 gam chất bột màu trắng niêm phong kí hiệu T1 để lưu kho theo quy định.

Tại bản kết luận giám định số 691/KL-KTHS ngày 13/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong bì ký hiệu T gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, khối lượng thu giữ ban đầu là 0,134 gam.

Quá trình điều tra Th khai nhận: Khoảng 10 giờ ngày 05/4/2021, Th đi bộ một mình từ nhà đến khu vực tổ dân phố Đồng T phường Đ.B, thành phố TN với mục đích tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Đến nơi, Th gặp và mua của 01 người đàn ông không quen biết 01 gói Heroine được gói bên ngoài bằng giấy bạc màu vàng với giá 100.000 đồng (Một trăm nghìn đồng). Mua xong, Th cất gói Heroine vào túi áo bên trái đang mặc rồi đi bộ về để tìm nơi sử dụng nhưng khi Th đi đến khu vực tổ dân phố 2 , phường Đ.B, thành phố TN thì bị tổ công tác Công an phường Đ.B, thành phố TN phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên.

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng của vụ án: 01 (Một) Bì niêm phong theo quy định, ký hiệu T, bên trong chứa chất ma túy, là mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 (Một) bì niêm phong đúng quy định, ký hiệu T1, bên trong chứa chất ma túy. Hiện được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án thành phố TN chờ xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 301/CT-VKSTPTN ngày 28 tháng 5 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Bích Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như như nội dung bản cáo trạng truy tố.

Trong phần luận tội tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN tóm tắt nội dung vụ án, phân tích các căn cứ quy kết bị cáo Nguyễn Thị Bích Th về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; đánh giá nhân thân; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Từ đó đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù giam, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và điều 47 Bộ luật hình sự đề nghị Hội đồng xét xử: Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) bì niêm phong theo quy định, ký hiệu T và 01 (Một) Bì niêm phong đúng quy định, ký hiệu T1, là vật cấm không có giá trị sử dụng.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không oan, đúng người, đúng tội. Lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố TN, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo, không có ý kiến hoặc kiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan Điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến; kết luận giám định, vật chứng thu giữ. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Hồi 10 giờ 15 phút ngày 05/4/2021, tại khu vực tổ dân phố 2 , phường Đ.B, thành phố TN, Nguyễn Thị Bích Th có hành vi tàng trữ 0,134 gam Heroine mục đích để sử dụ0ng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường Đ.B, thành phố TN phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

3]. Đánh giá của Hội đồng xét xử: Bị cáo biết ma túy là vật cấm được Nhà quản lý nhưng vấn cố tình tàng trữ 0,134 gam Heroine để sử dụng cho bản thân. Do vậy hành vi của bị cáo đã đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát thành phố TN truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều 249 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”:

a) .....

c) Heroine ... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[4] Xét tính chất mức độ của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm các quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an ở địa phương.

[5] Xét nhân thân, tiền án, tiền sự, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, có nhân thân rất xấu, tại bản án số 208 ngày 26/12/1997 của Tòa án nhân dân tỉnh TN xử phạt 07 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Đã chấp hành xong hình phạt tù và thi hành xong án phí, hình phạt bổ sung. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có chị gái là liệt sỹ nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xét thấy, bị cáo phụ nữ nhưng nghiện ma túy, đã bị xét xử 1 lần về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nay không tu dưỡng rèn luyện bản thân nên cần có một mức án nghiêm minh tương xứng với nhân thân tình tiết tăng nặng giảm nhẹ đối với bị cáo. Mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo tại phiên tòa là phù hợp [6] Vật chứng của vụ án: 01 (Một) Bì niêm phong theo quy định, ký hiệu T và 01 (Một) Bì niêm phong đúng quy định, ký hiệu T1. Vật chứng là vật cấm và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy [7] Về hình phạt bổ sung và án phí - Về hình phạt bổ sung: Quá trình xét xử bị cáo khai không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không phạt bổ sung đối với bị cáo - Án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước. Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, Th khai đã mua của một người đàn ông không r lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở điều tra làm r để xử lý.

Bởi các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố:

1. Bị cáo Nguyễn Thị Bích Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự;

2. Xử phạt: Nguyễn Thị Bích Th 18 (Mười tám) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 05/4/2021. Không phạt bổ sung đối với bị cáo Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự Quyết định tạm giam bị 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì niêm phong đúng quy định ký hiệu T, mặt trước có ghi hoàn trả 0,062 gam mẫu T và vỏ bao gói mẫu T vụ Nguyễn Thị Bích Th, sinh năm 1971 phạm tội về ma túy, mặt sau có chữ ký của đồng chí Trần Đức T2, cán bộ Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN và đồng chí Ma Triệu V, cán bộ Công an thành phố TN và 02 dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN; 01 bì niêm phong ký hiệu T1, mặt trước có ghi 0,062 gam chất bột màu trắng (lưu kho), mặt sau có chữ ký của các thành phần tham gia cùng 02 dấu tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN. Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng số 432 ngày 02/6/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN

 4. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà Nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 274/2021/HSST ngày 25/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:274/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về