Bản án 274/2020/HS-PT ngày 26/09/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NNG

BẢN ÁN 274/2020/HS-PT NGÀY 26/09/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Vào ngày 26 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 299/2020/TLPT-HS ngày 14 tháng 8 năm 2020 đối với các bị cáo Trần Thị M, Mai Thị D Trần Thị C.

Do có kháng cáo của các bị cáo và của bị hại bà Nguyễn Thị H đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2020/HS-ST ngày 08/07/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

* Các bị cáo có kháng cáo:

1. Trần Thị M, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1965 tại Đà Nẵng; Nơi cư trú: quận C, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa: 07/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn X (c) và bà Phạm Thị C (c); Gia đình có 11 anh chị em, bị cáo là con thứ năm; Có chồng là Nguyễn Hữu N và 04 con (lớn nhất sinh năm 1989 và nhỏ nhất sinh năm 2002); Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt giam ngày 12/3/2019 (có mặt).

2. Mai Thị D (B), sinh ngày 18 tháng 10 năm 1967 tại Quảng Nam; Nơi cư trú: quận C, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Mai C (c) và bà Trần Thị H; Gia đình có 06 anh chị em, bị cáo là con thứ tư; Có chồng là Phạm L và 02 con (con lớn sinh năm 1988 và con nhỏ sinh năm 1994). Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại (có mặt).

3. Trần Thị C, sinh ngày 01 tháng 03 năm 1963; Nơi cư trú: Tổ 56, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn X (c) và bà Phạm Thị C (c); Gia đình có 11 anh chị em, bị cáo là con thứ tư; Có chồng là Nguyễn Thanh H (c) và 04 con (lớn nhất sinh năm 1982, nhỏ nhất sinh năm 1992); Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại (có mặt).

* Người bào chữa cho bị cáo Trần Thị M:

Ông Trần Văn H - Luật sư Văn phòng Luật sư T, thuộc Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng (có mặt).

* Bị hại:

Nguyễn Thị H, sinh năm: 1963; Nơi ĐKHKTT: quận C, thành phố Đà Nẵng. Hiện đang bị giam tại Trại tạm giam Công an thành phố Đà Nẵng (có mặt).

(Ngoài ra trong vụ án có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo, Tòa án không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 9/2016, Trần Thị M biết chị Nguyễn Thị H (sinh năm 1963, trú tổ 15E, phường H, quận C) có nhu cầu cho vay tiền, nên M nảy sinh ý định đưa ra thông tin giả là đang bán hàng bao bì phế liệu cho 03 đại lý có tên là T (số điện thoại 0935501511), H1 (số điện thoại 0905588312) và Đ (số điện thoại 0901129094) để chiếm đoạt tiền của chị H. M nói dối với chị H là các đại lý này không trả tiền hằng ngày cho chị M mà viết phiếu nhập hàng và hẹn 20 ngày sau mới trả tiền, nhưng M không có vốn để kinh doanh, nên đề nghị chị H thu mua lại các phiếu nhập hàng ngày, đến ngày hẹn trả tiền M sẽ có trách nhiệm cầm phiếu đi lấy tiền từ các đại lý về trả lại cho chị H và chị H sẽ được hưởng lợi 1.000 đồng/kg bao bì loại 1 và 500 đồng/kg bao bì loại 2. Chị H nghe M nói vậy nên đồng ý. Hằng ngày, M tự viết các phiếu nhập hàng để thể hiện số lượng hàng loại I, loại II, số tiền, ngày thanh toán và ký tên người mua hàng là H1, T hoặc Đ, số phiếu này, M đem giao cho chị H, căn cứ vào phiếu M đưa, chị H sẽ tính toán để hai bên giao tiền cho nhau và chị H tự ghi chép số liệu vào sổ theo dõi của mình để khi đến ngày hẹn trả tiền thì sẽ giao phiếu lại cho M đi nhận tiền. Để thực hiện nhiều lần chiếm đoạt tiền của chị H mà không bị phát hiện, M thường ghi phiếu nhập hàng sau với số tiền cao hơn phiếu nhập hàng trước để chiếm đoạt tiền chênh lệch.

Ngoài việc tự mình lập phiếu khống chiếm đoạt tiền của chị H, M còn nhờ chị gái của mình là Trần Thị C giúp lập khống phiếu thu mua phế liệu, M giới thiệu C với chị H để chị H đồng ý nhận phiếu của C và C lấy tiền tự chị H đưa cho M hoặc dùng tiền phiếu hàng của C để khấu trừ nợ cho M. Trong thời gian từ tháng 02/2017, Trần Thị C đã giúp sức cho Trần Thị M lập khống 02 phiếu nhập hàng với tổng số tiền hàng là 32.522.000 đồng.

Với thủ đoạn như trên, trong thời gian từ ngày 22/11/2016 đến ngày 07/8/2017 Trần Thị M đã làm nhiều phiếu nhập hàng khống và đã nhận của chị Nguyễn Thị H tổng số tiền là 5.065.775.000 đồng và M đã trả lại tổng số tiền hàng cho chị H là 3.094.746.000 đồng. Như vậy, Trần Thị M đã chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị H là 1.971.029.000 đồng, trong tổng số tiền chiếm đoạt này, Trần Thị C đã giúp sức cho Trần Thị M chiếm đoạt số tiền 32.522.000 đồng.

Cuối năm 2016, Mai Thị D là người làm thuê cho Trần Thị M, D biết M lập khống phiếu nhập hàng bao bì phế liệu đưa cho chị H để lấy tiền. Thời gian này, D gặp khó khăn về kinh tế nên đã nhờ M hướng dẫn cách làm phiếu nhập hàng giả để lừa lấy tiền của chị H, M đồng ý. Ngày 07/12/2016, M hướng dẫn cho D làm phiếu đầu tiên với số tiền 5.712.000 đồng và dẫn D đến giới thiệu với chị H nên chị H đồng ý nhận phiếu của D và đưa cho D số tiền 5.712.000 đồng. Sau khi chiếm đoạt được số tiền trên, thì trong khoảng thời gian từ ngày 07/12/2016 đến ngày 15/9/2017 Mai Thị D đã tự mình lập khống nhiều phiếu nhập hàng rồi đem giao cho chị H để chiếm đoạt tiền. Tính đến ngày 01/8/2017 tổng số tiền chị H đã giao cho D là 627.600.000 đồng.

Như vậy, tổng số tiền Mai Thị D đã chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị H là (627.600.000đồng - 225.430.000đồng) + 5.712.000 = 407.882.000 đồng. Trong tổng số tiền chiếm đoạt này, Trần Thị M đã giúp sức cho Mai Thị D chiếm đoạt số tiền 5.712.000 đồng.

Tại bản án kết luận giám định số 677/GĐ-HS ngày 28/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng đã kết luận:

+ Chữ viết trên tài liệu cần giám định ký hiệu từ A1 đến A15 so với chữ viết đứng tên Mai Thị D trên tài liệu mẫu so sánh do cùng một người viết ra.

+ Chữ viết trên tài liệu cần giám định ký hiệu từ A16 đến A43 so với chữ viết đứng tên Trần Thị M trên tài liệu mẫu so sánh do cùng một người viết ra.

+ Chữ ký mang tên T, H1 và Đ trên các tài liệu cần giám định ký hiệu từ A1 đến A43 không đồng dạng với chữ ký đứng tên Mai Thị D và Trần Thị M trên các tài liệu mẫu so sánh nên không tiến hành giám định.

Vật chứng giam giữ:

- 26 tờ giấy vở ghi hàng của Trần Thị M từ ngày 29/8/2017 đến ngày 15/9/2017; 02 tờ giấy vở ghi hàng của Trần Thị C ngày 01/9/2017 và 08/9/2017; 15 tờ giấy vở ghi hàng của B (D) từ ngày 31/8/2017 đến 15/9/2017.

- 02 cuốn sổ ghi chép số liệu phiếu hàng và tính tiền của Nguyễn Thị H.

- 02 đĩa ghi âm cuộc gọi nói chuyện giữa Nguyễn Thị H và Trần Thị M; Giữa Nguyễn Thị H và Trần Nhật Minh (Đ) do chị H giao nộp.

Tại Bản cáo trạng số 11/CT-VKS-P3 ngày 01/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Trần Thị M về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự, bị cáo Mai Thị D về, tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự, bị cáo Trần Thị C về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2020/HS-ST ngày 08 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

Tuyên bố: Các bị cáo Trần Thị M, Mai Thị D, Trần Thị C phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Căn cứ vào điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Trần Thị M 11 (mười một) năm tù. Thời gian chấp hành án kể từ ngày bắt giam 12/3/2019.

- Căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Mai Thị D 06 (sáu) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt giam thi hành án.

- Căn cứ khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: Trần Thị C 01 (một) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt giam thi hành án.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về dân sự, xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Kháng cáo

Ngày 10/7/2020, người bị hại Nguyễn Thị H có đơn kháng cáo với nội dung: Mức án không phù hợp với hành vi phạm tội của các bị cáo Trần Thị M, Mai Thị D, Trần Thị C, đề nghị xét xử theo trình tự phúc thẩm, tăng hình phạt đối với các bị cáo.

Ngày 17/7/2020:

+ Bị cáo Trần Thị M có đơn kháng cáo với nội dung: Mức án là quá nặng, đề nghị giảm nhẹ hình phạt và xem xét lại số tiền buộc bị cáo phải bồi thường cho người bị hại.

+ Bị cáo Mai Thị D có đơn kháng cáo với nội dung: Mức án là quá nặng, xin được giảm nhẹ hình phạt, cho hưởng án treo và xem xét lại số tiền buộc bị cáo phải bồi thường cho người bị hại.

+ Bị cáo Trần Thị C có đơn kháng cáo với nội dung: Mức án là quá nặng, xin được giảm nhẹ hình phạt và cho hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Người bị hại và các bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Luật sư Trần Văn H bào chữa cho bị cáo Trần Thị M trình bày:

Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 11 năm tù là quá nặng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, sau khi xét xử sơ thẩm gia đình bị cáo có thiện chí tiếp tục nộp 10.000.000đ để khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại; đề nghị giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu:

Mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo là phù hợp với vai trò, tính chất mức độ hậu quả hành vi phạm tội của từng bị cáo. Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới; đối với kháng cáo của bị cáo Trần Thị C, do phạm tội nhiều lần nên không được hưởng án treo; đối với kháng cáo của bị cáo Trần Thị M về số tiền chiếm đoạt, bị cáo không có tài liệu chứng cứ chứng minh nên không có cơ sở chấp nhận. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ mà bản án sơ thẩm đã qui kết buộc tội, phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án đã chứng minh tại phiên tòa. Từ đó có đủ cơ sở xác định: Trong thời gian từ ngày 22/11/2016 đến ngày 15/9/2017, Trần Thị M cùng với Trần Thị C và Mai Thị D đã lập phiếu nhập hàng khống chiếm đoạt tiền của chị Nguyễn Thị H, cụ thể:

Trần Thị M đã chiếm đoạt 1.971.029.000 đồng, trong số tiền chiếm đoạt này, Trần Thị C đã giúp sức cho Trần Thị M chiếm đoạt số tiền 32.522.000 đồng.

Mai Thị D đã chiếm đoạt 407.882.000 đồng, trong số tiền chiếm đoạt này, Trần Thị M đã giúp sức cho Mai Thị D chiếm đoạt số tiền 5.712.000 đồng.

[2] Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, bị cáo Trần Thị M xử phạt theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015, bị cáo M Thị D xử phạt theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015, bị cáo Trần Thị C xử phạt theo quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo đề nghị giảm hình phạt của các bị cáo:

Đối với bị cáo Trần Thị M: Trong vụ án này, bị cáo Trần Thị M nhiều lần tự mình lập phiếu khống chiếm đoạt tiền của chị H với tổng số tiền 1.971.029.000 đồng, bị cáo còn nhờ Trần Thị C lập phiếu khống thu mua phế liệu cho M, hướng dẫn Mai Thị D cách làm phiếu nhập hàng giả để lừa đảo chiếm đoạt tiền của chị H. Việc bị cáo cho rằng số tiền chiếm đoạt không đến 1.971.029.000 đồng, tuy nhiên bị cáo không có tài liệu chứng cứ chứng minh. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Trần Thị M mức án 11 năm tù, hình phạt cao nhất trong các bị cáo là phù hợp với vai trò chịu trách nhiệm chính trong vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Sau khi xét xử sơ thẩm, gia đình bị cáo có nộp 10.000.000đ khắc phục hậu quả, tuy nhiên số tiền này không tương xứng so với hậu quả gây ra cho người bị hại nên không thể chấp nhận kháng cáo để giảm hình phạt.

Đối với bị cáo Mai Thị D, với sự hướng dẫn của M, bị cáo D đã tự mình lập khống nhiều phiếu nhập hàng rồi đem giao cho chị H để chiếm đoạt tổng số tiền 407.882.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và xử phạt bị cáo Mai Thị D mức án 06 năm tù là tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội. Sau khi xét xử sơ thẩm, gia đình bị cáo có nộp 5.000.000đ khắc phục hậu quả, tuy nhiên số tiền này quá nhỏ so với hậu quả gây ra cho người bị hại nên không thể chấp nhận kháng cáo để giảm hình phạt.

Đối với bị cáo Trần Thị C, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tuy nhiên bị cáo phạm tội nhiều lần nên xử phạt 01 năm tù là phù hợp, nên không thể chấp nhận kháng cáo cho hưởng án treo.

[4] Về kháng cáo của người bị hại Nguyễn Thị H đề nghị tăng mức hình phạt đối với các bị cáo, thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo khi lượng hình. Mức hình phạt áp dụng đối với các bị cáo là tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội, không nhẹ. Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của người bị hại.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Các bị cáo và người bị hại không được chấp nhận kháng cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Thị M, Mai Thị D, Trần Thị C;

Không chấp nhận kháng cáo của người bị hại Nguyễn Thị H.

Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 25/2020/HS-ST ngày 08 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

1. Tuyên bố: Các bị cáo Trần Thị M, Mai Thị D, Trần Thị C phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Trần Thị M 11 (mười một) năm tù. Thời gian chấp hành án kể từ ngày bắt giam 12/3/2019.

- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Mai Thị D 06 (sáu) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt giam thi hành án.

- Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: Trần Thị C 01 (một) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt giam thi hành án.

2. Án phí hình sự phúc thẩm:

Các bị cáo Trần Thị M, Mai Thị D, Trần Thị C phải chịu án phí hình sự phúc thẩm, mỗi người 200.000đ.

Người bị hại Nguyễn Thị H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm 200.000đ.

3. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 274/2020/HS-PT ngày 26/09/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:274/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về