TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 274/2018/HSPT NGÀY 26/04/20187 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 26 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội tiến hành xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 03/2018/TLPT-HS ngày 03 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo Phạm Đức T phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” do có kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 69/2017/HSST ngày 15/11/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.
* Bị cáo bị kháng nghị:
Phạm Đức T, sinh năm 1981; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Phố CH2, phường ĐH, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa; tạm trú: Thôn NL, xã HB, huyện HT, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; con ông Phạm Đức Th và bà Nguyễn Thị H; có vợ là Trần Thị Hồng M, chưa có con; tiền án: Ngày 15/7/2002 bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (đã chấp hành xong hình phạt tù, ra trại ngày 02/02/2003); Ngày 16/9/2004 bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 36 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 42 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (đã chấp hành xong hình phạt tù, ra trại ngày 21/7/2009); Ngày 17/7/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 05 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” (đã chấp hành xong hình phạt tù, ra trại ngày 03/01/2017); bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/4/2017 cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.
* Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Bùi Hữu N, Văn phòng luật sư HN, Đoàn luật sư tỉnh Thanh Hóa; có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 21h ngày 15/4/2017, Tổ Công tác Đội 3, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an tỉnh Thanh Hóa đang làm nhiệm vụ tại đường BT, kp6, phường BS, thị xã BSn, tỉnh Thanh Hóa phát hiện bắt quả tang Phạm Đức T đang có hành vi vận chuyển trái phép 37,792 gam chất bột màu trắng nghi là ma túy. Tổ Công tác đã niêm phong vật chứng và gửi mẫu vật đi giám định.
Tại Bản kết luận giám định số 1060/MT-PC54 ngày 19/4/2017, Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận: Các cục màu trắng của phong bì niêm phong ký hiệu M gửi giám định có tổng trọng lượng là 37,792 gam, có Hêrôin.
Ngày 14/8/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã ra Quyết định số 21/2017/QĐTCGĐ-HS trưng cầu giám định hàm lượng chất ma túy.
Tại Bản kết luận giám định số 1946/MT-PC54 ngày 12/10/2017, Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận: Các cục màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định có hàm lượng Hêrôin là 48,23%.
Tại Cơ quan điều tra, Phạm Đức T khai nhận: Khoảng tháng 3/2017, T có quen biết một người đàn ông tên Hg (không biết lai lịch, địa chỉ cụ thể). Khoảng 20 giờ ngày 15/4/2017, T đang ngồi uống nước tại cổng Bệnh viện đa khoa huyện HT thì gặp Hg, Hg đặt vấn đề nhờ T nhờ T mang gói Hêrôin ra khu vực trạm soát vé ở thị xã BSn giao cho khách, Hg trả công 1.000.000 đồng, T đồng ý. Sau đó, T nhờ anh Lê Huy (bạn T nhưng không nói rõ lý do) chở ra trạm soát vé có việc. Khi đi đến gần cầu S, thị xã BSn thì bị Công an kiểm tra, T đã bỏ chạy về hướng đền S, trên đường chạy đã ném gói ma túy xuống vỉa hè, T chạy được khoảng 4m thì bị bắt giữ. Cơ quan Công an thu giữ tang vật và niêm phong gửi đi giám định.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 69/2017/HSST ngày 15/11/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã áp dụng điểm p, h khoản 2, khoản 5 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 30 Bộ luật Hình sự, xử phạt Phạm Đức T 13 (Mười ba) năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 15/4/2017. Phạt tiền bị cáo T 5.000.000 đồng sung quỹ Nhà nước.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Phạm Đức T không kháng cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm. Ngày 15/11/2017, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa có Quyết định kháng nghị số 13/KN-VKS-P1, đề nghị áp dụng điểm b khoản 3 Điều 194 Bộ luật hình sự, xử tăng hình phạt đối với bị cáo Phạm Đức T.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phạm Đức T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản án hình sự sơ thẩm đã nêu. Bị cáo xác nhận sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo không kháng cáo, đồng thời thừa nhận Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, mức hình phạt 13 (Mười ba) năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là phù hợp. Bị cáo đã nhận được kháng nghị phúc thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giải quyết theo quy định của pháp luật.
Luật sư bào chữa cho bị cáo Phạm Đức T đề nghị: Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã xét xử bị cáo T ở điểm p, h khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng nghị, giữ nguyên tội danh và hình phạt đối với bị cáo Phạm Đức T.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm, đồng thời phân tích hành vi phạm tội của bị cáo Phạm Đức T. Từ đó, cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo T phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng pháp luật. Về áp dụng pháp luật: Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xác định trọng lượng chất ma túy trên cơ sở tỷ lệ hàm lượng làm căn cứ xét xử đối với bị cáo Phạm Đức T là trái với quy định của Bộ luật hình sự, Nghị quyết 41/2017/QH14 và Thông tư liên tịch 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC- TANDTC-BTP ngày 14/11/2015 của Liên ngành Trung ương; đồng thời quyết định mức hình phạt 13 (Mười ba) năm tù đối với bị cáo T là chưa nghiêm khắc. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa theo hướng sửa bản án sơ thẩm; áp dụng điểm b khoản 3 Điều 194 Bộ luật hình sự, tăng hình phạt tù đối với bị cáo Phạm Đức T.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của Luật sư bào chữa và bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Tại cơ quan điều tra, phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, bị cáo Phạm Đức T khai nhận thành khẩn hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở xác định: Phạm Đức T đã có hành vi vận chuyển trái phép 37,792 gam có thành phần Hêrôin.
[2] Xét Kháng nghị phúc thẩm số 13/KN-VKS-P1 ngày 15/11/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy:
Tại Bản kết luận giám định số 1060/MT-PC54 ngày 19/4/2017, Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận: Các cục màu trắng của phong bì niêm phong ký hiệu M gửi giám định có tổng trọng lượng là 37,792 gam, có Hêrôin.
Ngày 14/8/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã ra Quyết định số21/2017/QĐTCGĐ-HS trưng cầu giám định để xác định hàm lượng chất Hêrôinlà đúng quy định tại điểm 1.4 mục 1 phần I Thông tư liên tịch 17/2007/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP ngày 24/12/2007 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự năm 1999, Thông tư liên tịch 08/2015/TTLT-BCA- TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày14/11/2015 sửa đổi bổ sung một số điểm của Thông tư liên tịch 17/2007/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP ngày 24/12/2007 nói trên và các văn bản pháp luật khác.
Tại Bản kết luận giám định số 1946/MT-PC54 ngày 12/10/2017, Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận: Các cục màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định có hàm lượng Hêrôin là 48,23%.
Như vậy, theo Kết luận giám định số 1946/MT-PC54 (TT2) ngày 12/10/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thanh Hóa thì chất ma túy mà bị cáo Phạm Đức T vận chuyển trái phép 18,227 gam Hêrôin; do đó, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã áp dụng điểm p, h khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Phạm Đức T là đúng quy định của pháp luật.
Về mức hình phạt đối với bị cáo Phạm Đức T, khi lượng hình Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, đánh giá và áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để xử phạt bị cáo T 13 (Mười ba) năm tù là tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra cho xã hội. Từ những phân tích nêu trên thì không có căn cứ chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnhThanh Hóa. Giữ nguyên tội danh, điều luật áp dụng và hình phạt của bản án hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Phạm Đức T.
[3] Bị cáo Phạm Đức T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên, căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
QUYẾT ĐỊNH
[1] Không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm về áp dụng điều luật và hình phạt đối với Phạm Đức T.
Áp dụng điểm p, h khoản 2, khoản 5 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 30 Bộ luật hình sự, xử phạt: Phạm Đức T 13 (Mười ba) năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 15/4/2017. Phạt bị cáo T 5.000.000 (Năm triệu) đồng sung quỹ Nhà nước. Tiếp tục giam các bị cáo để đảm bảo thi hành án.
[2] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[3] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 274/2018/HSPT ngày 26/04/2018 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 274/2018/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/04/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về