Bản án 273/2020/HSST ngày 27/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 273/2020/HSST NGÀY 27/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 290/2020/HSST ngày 12/10/2020, theo Quyết định đưa ra xét xử sơ thẩm số 290/2020/QĐXX-ST ngày 12/10/2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Chu Văn T, sinh năm 1986; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: không; ĐKTT và chỗ ở: huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 0/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Họ tên cha: Chu Văn H, sinh năm 1947 - Đã chết; Họ tên mẹ: Hoàng Thị L, sinh năm 1949 – Đã chết; Gia đình có 05 anh chị em, bị cáo là con thứ 5. Họ và tên vợ: Hoàng Thị S; SN: 1986 (đã ly hôn); Có 02 con (Lớn SN: 2007, Nhỏ SN: 2011); Tiền án, tiền sự: Theo danh chỉ bản số 348 ngày 5/6/2020 của Công an quận Long Biên lập và lý lịch địa phương cung cấp bị cáo: Bị cáo không có tiền án, tiền sự.

Bị caó bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 29/5/2020, tạm giam từ ngày 05/6/2020, hiện tạm giam tại Trại tạm giam số 2 – CATP Hà Nội. (có mặt) 2.Họ và tên: Lò Văn Th, sinh năm 2001; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; ĐKTT và chỗ ở: huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Họ tên cha: Lò Văn B, sinh năm 1974; Họ tên mẹ: Lò Thị P, sinh năm 1975; Gia đình có 03 anh em, bị caó là con út. Tiền án, tiền sự: Theo danh chỉ bản số 347 ngày 5/6/2020 của Công an quận Long Biên lập và lý lịch địa phương cung cấp bị cáo: Bị cáo không có tiền án, tiền sự.

Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 29/5/2020, tạm giam từ ngày 05/6/2020, hiện tạm giam tại Trại tạm giam số 2 – CATP Hà Nội. (có mặt)

Người bào chữa cho các bị cáo: Luật sư Đỗ Thị Hương – Văn phòng luật sư Bảo Nhân, đoàn luật sư thành phố Hà Nội (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 21h 30’ ngày 29/5/2020, Tổ công tác Công an phường Thượng Thanh, Long Biên, Hà Nội phối hợp với tổ công tác C3D2 PK20 Cảnh sát Cơ động, Công an thành phố Hà Nội làm nhiệm vụ tại đê Thượng Thanh thuộc tổ 26 phường Thượng Thanh, Long Biên, Hà Nội phát hiện Lò Văn Th điều khiển xe máy Jupiter, BKS: 29P6-2273 chở Chu Văn T có biểu hiện nghi vấn. Tổ công tác đã tiến hành dừng xe kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra, Cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang Lò Văn Th và Chu Văn T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ của T gồm: 01 gói giấy bạc bên trong có chứa chất bột màu trắng (T và Th khai là ma túy Heroin), 01 điện thoại nhãn hiệu Mastel màu đen trắng đã qua sử dụng; Thu giữ của Th: 01 xe máy nhãn hiệu Jupiter BKS: 29P6-2273.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Long Biên, Lò Văn Th và Chu Văn T khai nhận: Do Chu Văn T và Lò Văn Th mắc nghiện ma túy nên khoảng 21h ngày 29/5/2020, T rủ Th góp tiền mua ma túy về cùng sử dụng, Th đồng ý. Cả hai bàn nhau, mỗi người bỏ ra 200.000 đồng để mua ma túy rồi T đưa 200.000 đồng cho Th. Sau đó, Th mượn xe máy BKS: 29P6-2273 của chủ cai xây dựng rồi điều khiển xe máy chở T đi tìm mua ma túy. Khi Th và T đi đến đầu cầu Đuống thuộc địa phận huyện Gia Lâm, Hà Nội, Th gặp và nhờ 01 người đàn ông lái xe ôm đi mua hộ ma túy. Th đưa cho người đàn ông 400.000 đồng để mua ma túy. Người đàn ông cầm tiền đi khoảng 5 phút sau thì quay lại đưa cho Th 01 gói ma túy Heroin. Th cầm gói ma túy đưa cho T cất giấu. T cầm gói ma túy cất vào cạp quần lót đang mặc rồi lên xe để Th chở đi tìm nơi cùng sử dụng ma túy. Khi Th và T đi đến đê Thượng Thanh thuộc tổ 26, phường Thượng Thanh, Long Biên, Hà Nội thì bị Cơ quan Công an kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra Cơ quan Công an đã phát hiện bắt quả tang thu giữ gói ma túy nêu trên. Tại chỗ, Th và T khai nhận gói ma túy Heroin là của Th và T vừa góp tiền mua về để cùng sử dụng. Cơ quan Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ tang vật và đưa các đối tượng cùng tang vật về trụ sở để làm việc.

Lời khai của Chu Văn T và Lò Văn Th phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người làm chứng có mặt tại hiện trường và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Bản kết luận giám định số 4294/KLGĐ-PC09 ngày 05/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy bạc là ma túy loại Heroine, khối lượng: 0,381 gam.

Bản cáo trạng số 284/CT-VKS ngày 09/10/2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã truy tố Lò Văn Th và Chu Văn T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa: Các bị cáo Lò Văn Th và Chu Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo theo đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Người bào chữa trình bày luận cứ bảo vệ cho các bị cáo với nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo do thành khẩn khai báo, các bị cáo là người dân tộc, thuộc vùng đặc biệt khó khăn, không có nghề nghiệp ổn định, trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật hạn chế. Xét về tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo mức án thấp trong khung hình phạt để các bị cáo sớm trở về xã hội, miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận tại phiên tòa như sau: Sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo đã xác định: Hành vi phạm tội của các bị cáo Lò Văn Th, Chu Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, vì vậy đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo như nội dung bản cáo trạng. Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 17, Điều 58, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Về hình phạt: Đề nghị xử phạt các bị cáo với mức án từ 18 đến 22 tháng tù giam; Về hình phạt bổ sung: Miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo do các bị cáo không có công việc, thu nhập ổn định; Về xử lý vật chứng: Đề nghị cho tịch thu, tiêu hủy 0,381 gam ma túy loại Heroin thu giữ của các bị cáo. Đề nghị trả lại cho bị cáo T 01 điện thoại nhãn hiệu Mastel màu đen trắng đã qua sử dụng, nhưng cho tạm giữ lại để đảm bảo cho việc T hành án.

Nói lời sau cùng các bị cáo nhận thấy hành vi của các bị cáo là sai, vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử mở lượng khoan hồng cho các bị cáo mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Long Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Xét lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra; bản tự khai của các bị cáo, lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản tạm giữ đồ vật, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố đủ cơ sở kết luận: Hồi 21h30’ ngày 29/5/2020, tại khu vực đê Thượng Thanh thuộc tổ 26 phường Thượng Thanh, Long Biên, Hà Nội, Chu Văn T và Lò Văn Th đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,381 gam ma túy loại Heroin, mục đích để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Tổ công tác Công an phường Thượng Thanh, Long Biên, Hà Nội phối hợp với tổ công tác C3D2 PK20 Cảnh sát Cơ động, Công an thành phố Hà Nội phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

nh vi phạm tội của các bị cáo Lò Văn Th, Chu Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Các bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp không chỉ đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước mà còn gây mất trật tự trị an xã hội vì vậy cần phải xử lý nghiêm khắc bằng pháp luật hình sự. Vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều giữ vai trò thực hành, tính chất mức độ tham gia phạm tội của từng bị cáo là như nhau, Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đưa ra các chứng cứ buộc tội và truy tố các bị cáo Lò Văn Th, Chu Văn T về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa và tại cơ quan điều tra các bị cáo Lò Văn Th, Chu Văn T khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo là người dân tộc Tểu số, sinh sống tại vùng đặc biệt khó khăn, trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật còn hạn chế nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về nhân thân: Các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

[6] Về quyết định hình phạt: Sau khi xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, xét thấy cần phải xử phạt các bị cáo bằng hình phạt tù, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, rèn luyện ý thức tuân thủ pháp luật, trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[7] Về hình phạt bổ sung: Do các bị cáo không có thu nhập ổn định nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo.

Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo là có căn cứ phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy 0,381 gam ma túy loại Heroin thu giữ của các bị cáo do là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành.

- Trả lại cho bị cáo Chu Văn T 01 điện thoại nhãn hiệu Mastel màu đen trắng đã qua sử dụng do không liên quan đến hành vi phạm tội, nhưng cho tạm giữ lại để đảm bảo cho việc T hành án.

Đề nghị xử lý vật chứng của Đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[9] Nội dung Luận cứ của người bào chữa cho bị cáo phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[10] Về các vấn đề khác:

- Đối với người đàn ông bán trái phép chất ma túy cho Th tại khu vực đầu cầu Đuống thuộc địa phận huyện Gia Lâm, do Th và T khai không biết gì về nhân thân lai lịch người này nên Cơ quan CSĐT Công an quận Long Biên không có cơ sở điều tra làm rõ, Hội đồng xét xử thống nhất với Cơ quan điều tra khi nào làm rõ xử lý sau.

- Đối với 01 xe máy nhãn hiệu Jupiter, BKS: 29P6-2273 thu giữ của Th, qua xác minh thể hiện chiếc xe máy này có đăng ký tên Nguyễn Hoàng G (SN 1979, nơi cư trú: quận Tây Hồ, Hà Nội). Tháng 11/2003, anh G mua và đăng ký chính chủ chiếc xe máy trên. Đến đầu năm 2016, anh G bán chiếc xe máy trên cho 01 người đàn ông không quen biết ở Đa Tốn, Gia Lâm với giá 5.000.000 đồng. Đầu năm 2020, anh Hoàng Đình H (SN: 1983, HKTT: Tĩnh Gia, Thanh Hóa là chủ cai thầu của Th và T) mua chiếc xe máy trên của 01 người đàn ông không quen biết ở cửa hàng xe máy thuộc địa phận Đa Tốn, Gia Lâm với giá 1.500.000 đồng. Quá trình sử dụng xe máy, anh H đã làm mất giấy tờ xe. Ngày 29/5/2020, Lò Văn Th mượn anh H chiếc xe máy trên để đi. Việc Th và T sử dụng xe máy đi mua, tàng trữ trái phép chất ma túy anh H không biết. Qua tra cứu, chiếc xe máy BKS:29P6-2273 không nằm trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Long Biên đã ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả chiếc xe máy Jupiter BKS: 29P6-2273 cho anh Hoàng Đình H là chủ sở hữu hợp pháp là có căn cứ, đúng pháp luật. Anh H đã nhận lại xe và không có ý kiến gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về án phí: Các bị cáo Lò Văn Th và Chu Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hình phạt:

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 17, Điều 58, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Lò Văn Th 20 (Hai mươi ) tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 29/5/2020.

Xử phạt: Bị cáo Chu Văn T 20 (Hai mươi) tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 29/5/2020.

* Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt tiền đối với các bị cáo.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu, tiêu hủy 0,381 gam ma túy loại Heroin thu giữ của các bị cáo. (Hiện đang lưu giữ tại Kho tang vật Công an quận Long Biên theo Phiếu nhập kho vật chứng ngày 4/8/2020) - Trả lại cho bị cáo Chu Văn T 01 điện thoại nhãn hiệu Mastel màu đen trắng đã qua sử dụng, nhưng cho tạm giữ lại để đảm bảo cho việc T hành án.

(Hiện có tại Chi cục T hành án dân sự quận Long Biên theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 9/10/2020)

3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Các bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Án xử công khai sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 273/2020/HSST ngày 27/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:273/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:27/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về