Bản án 272/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 272/2020/HS-ST NGÀY 24/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 24 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 265/2020/HSST ngày 10 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 278/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê Đình X, sinh năm 1989 tại tỉnh T; nơi cư trú: Thôn 6, xã A, huyện B, tỉnh T; tạm trú: 22/23 khu phố A, phường B, thành phố T, tỉnh B; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Đình Đ và bà Lê Thị C; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không có.

Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 30/3/2020. Có mặt.

Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Văn T. Vắng mặt.

2. Ông Lương Văn Th. Vắng mặt.

3. Ông Vũ Văn N. Vắng mặt.

4. Bà Võ Thị Trúc L. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 45 phút ngày 30 tháng 3 năm 2020, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế và Ma túy Công an thành phố Thuận An kết hợp cùng Công an phường Thuận Giao tiến hành kiểm tra hành chính quán cà phê 126 tại địa chỉ: D4/16, khu phố A, phường B, thành phố T. Khi tổ công tác kiểm tra chòi số 03, bên trong có 04 đối tượng gồm: Bị cáo Lê Đình X, Nguyễn Văn T, Lương Văn T, Vũ Văn N. Qua kiểm tra lực lượng Công an phát hiện bên trái trên nền chòi ngay vị trí của bị cáo X ngồi có 01 gói giấy màu bạc bên trong có chứa chất màu trắng, sau đó bị cáo X lấy từ cây trụ căng võng bên trái lối ra vào của chòi 01 chùm chìa khóa, trên chùm chìa khóa có 01 túi nylon màu xanh đựng 08 gói giấy bạc bên trong chứa chất màu trắng, 07 gói giấy bạc có dán băng keo đen bên trong chứa chất màu trắng, 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng hàn kín hai đầu bên trong chứa chất màu trắng, 01 đoạn ống hút nhựa màu cam hàn kín hai đầu bên trong chứa chất màu trắng, 01 túi nylon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng rồi giao nộp cho lực lượng Công an. X khai nhận toàn bộ số tang vật trên là ma túy đá và Hêrôin của X nên lực lượng Công an tiến hành lập biên bản niêm phong tang vật và biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với X.

Qua điều tra, bị cáo Lê Đình X khai nhận vào khoảng 11 giờ 00 phút ngày 30/3/2020, X có mua số ma túy trên của một người đàn ông không rõ nhân thân lai lịch, dáng người mập, da đen, cao khoảng 1,55m, nói giọng miền Nam ở khu vực cầu Tân Thạnh Đông, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh với giá 1.500.000 đồng, riêng 01 túi nylon miệng kéo dính chứa ma túy đá do bị cáo xin của người bán ma túy, bị cáo cất giấu toàn bộ số ma túy trên rồi đem đến quán cà phê 126 để sử dụng. Sau đó bị cáo gọi điện cho Nguyễn Văn T, Lương Văn T, Vũ Văn N đến quán cà phê 126 để uống cà phê, việc bị cáo cất giấu ma túy thì T, Th, N không biết.

Ngày 07/4/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương có kết luận giám định số 185/MT-PC09 với nội dung:

- Mẫu tinh thể trong 01 túi nylon miệng kéo dính là ma túy, có khối lượng 0,1306 gam và trong 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng hàn kín là ma túy, có khối lượng 0,0359 gam, tất cả đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng trọng lượng là 0,1665 gam.

- Mẫu chất màu trắng trong 01 gói giấy bạc là ma túy, có khối lượng 0,1713 gam; trong 01 đoạn ống hút nhựa màu cam hàn kín là ma túy, có khối lượng 0,333 gam; trong 08 gói giấy bạc là ma túy, có khối lượng 0,7251 gam; trong 07 gói giấy bạc có dán băng keo đen là ma túy, có khối lượng 0,6893 gam, tất cả đều là ma túy loại Hêrôin, tổng trọng lượng là 1,619 gam.

Tại bản Cáo trạng số 281/CT-VKS -TA ngày 10/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh B đã truy tố bị cáo Lê Đình X về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà trình bày lời luận tội trong đó có nội dung vẫn giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Lê Đình X từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đối với 02 bì thư được niêm phong, ký hiệu số 185/PC09 là mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 túi nylon màu xanh bị cáo đựng ma túy là vật chứng của vụ án nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Đối với Nguyễn Văn T, Lương Văn T, Vũ Văn N là những người có mặt tại thời điểm bắt giữ bị cáo X. Thời điểm này T, Th, N không biết việc bị cáo cất giấu ma túy nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xem xét xử lý. Tuy nhiên, T, Th, N đã có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy trước đó nên Trưởng Công an phường Thuận Giao đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với T, Th, N.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo, hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch, khi nào xác minh được sẽ xử lý sau.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng theo nội dung Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo đã ăn năn hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại, tố cáo về các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Đình X khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh B đã truy tố đối với bị cáo. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của người làm chứng, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận:

Vào ngày 30/3/2020, tại quán cà phê 126, địa chỉ: D4/16, khu phố A, phường B, thành phố T, bị cáo Lê Đình X thực hiện hành vi cố ý tàng trữ trái phép chất ma túy, qua giám định ma túy bị cáo tàng trữ có khối lượng 0,1665 gam loại Methamphetamine và 1,619 gam loại Hêrôin.

Do đó, Cáo trạng truy tố bị cáo Lê Đình X phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất gây nghiện của Nhà nước, gây mất trật tự trị an ở địa phương. Bản thân bị cáo là người đã thành niên, đồng thời là người nghiện ma túy, bị cáo nhận thức được hành vi cố ý tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng là vi phạm pháp luật Hình sự, nhưng vì muốn có ma túy để sử dụng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội, lỗi của bị cáo là cố ý trực tiếp. Vì vậy cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng cho bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo, hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch, khi nào xác minh được sẽ xử lý sau.

[6] Đối với Nguyễn Văn T, Lương Văn T, Vũ Văn N không biết việc bị cáo cất giấu ma túy nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xem xét xử lý. Tuy nhiên, Nguyễn Văn T, Lương Văn T, Vũ Văn N đã có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy trước đó nên Trưởng Công an phường T đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Văn T, Lương Văn T, Vũ Văn N là có căn cứ.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với 02 bì thư được niêm phong, ký hiệu số 185/PC09 là mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 túi nylon màu xanh bị cáo đựng ma túy là vật chứng của vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

Lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát có căn cứ, đúng pháp luật nên chấp nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Lê Đình X phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lê Đình X 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/3/2020.

2. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy 02 bì thư được niêm phong, ký hiệu số 185/PC09 là mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 túi nylon màu xanh.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 10/9/2020 giữa Công an thành phố T và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T).

3. Về án phí:

Buộc bị cáo Lê Đình X phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 272/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:272/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:24/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về