Bản án 272/2018/HNGĐ-ST ngày 21/09/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOẰNG HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 272/2018/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 9 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 253/2018/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 8 năm 2018 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:111/2018/QĐXX-ST ngày 07 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:

 1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1995

Địa chỉ: Thôn 12, xã Hoằng Th, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1990

Địa chỉ: Thôn 12, xã Hoằng Th, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Tại phiên tòa có mặt nguyên đơn chị Nguyễn Thị H, bị đơn anh Nguyễn Văn T vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 15/8/2018, bản tự khai ngày 23/8/2018 và lời khai tại phiên tòa của nguyên đơn chị Nguyễn Thị H thể hiện:

Tôi (Huệ) và anh Nguyễn Văn T tự nguyện kết hôn với nhau, được UBND xã Hoằng Th, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa cấp Trích lục kết hôn ngày 14 tháng 01 năm 2014. Vợ chồng tôi sống hòa thuận với nhau được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Toàn chơi bời cờ bạc, không chăm lo kinh tế gia đình. Để có tiền chơi bời anh T đã vay tiền nợ rất nhiều lần đến lúc không có tiền trả anh bắt tôi đi vay về cho anh, nhưng tôi không đi anh đã đánh đập và đuổi tôi ra khỏi nhà hơn một tháng nay tôi về nhà ngoại ở. Nay tôi nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị tòa án giải quyết cho tôi xin được ly hôn với anh T.

Về con: Vợ chồng tôi có 01( Một) con chung Nguyễn Phương Chi, sinh ngày 06/3/2017. Hiện nay cháu đang ở với chị H. Nay ly hôn tôi có nguyện vọng được nuôi cháu Chi và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và công nợ: Tôi không yêu cầu giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 24/8/2018 của anh Nguyễn Văn T thể hiện:

Về hôn nhân: Tôi và chị Nguyễn Thị H tự nguyện kết hôn được UBND xã Hoằng Th, huyện Hoằng Hóa trích lục kết hôn năm 2014. Sau khi cưới vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 8/2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tôi thiếu quan tâm đến vợ con nên vợ chồng tôi xảy ra xung đột, cải nhau. Chị H tự ái câu đuổi của tôi vì lúc đó tôi đang bực tức “Mày cút khỏi nhà tao” nên chị H đã tự ý bỏ về nhà mẹ đẻ ở. Tôi đã nhiều lần lên đón chị H về nhưng chị H không về. Nay chị H làm đơn xin ly hôn, tôi xét thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn nên tôi mong muốn được vợ chồng đoàn tụ.

Về con: Vợ chồng tôi có 01( Một) con chung Nguyễn Phương Chi, sinh ngày 06/03/2017. Nếu chị H cương quyết ly hôn nguyện vọng của tôi là được nuôi cháu và không yêu cầu cấp dưỡng.

Về tài sản: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị H không có sự thay đổi, bổ sung, rút toàn bộ về yêu cầu khởi kiện, các bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn T kết hôn với nhau vào năm 2014 trên cơ sở tự nguyện, do Ủy ban nhân dân xã Hoằng Th, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn theo đúng quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân gia đình, là hôn nhân hợp pháp.

Vợ chồng anh chị sống với nhau chỉ hòa thuận một thời gian ngắn thì xảy ra mâu thuẫn, không thể hòa giải nổi, vợ chồng không quan tâm gì đến nhau thể hiện tình cảm anh chị thực sự không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần áp dụng Điều 51, 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị H là phù hợp với tình trạng hôn nhân hiện nay của anh chị.

Về con: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn T có 01( Một) con chung Nguyễn Phương Chi, sinh ngày 06/03/2017. Hiện nay cháu đang ở với chị H. Nay chị H có nguyện vọng được nuôi cháu và không yêu cầu anh T cấp dưỡng.

Xét yêu cầu nuôi con của chị Huệ: Chị có nguyện vọng được nuôi cháu Nguyễn Phương Chi. Do cháu Chi đang còn nhỏ cần có sự quan tâm chăm sóc của người mẹ Do đó HĐXX chấp nhận yêu cầu nuôi con của chị Nguyễn Thị H là giao cháu Nguyễn Phương Chi cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng..

Xét yêu cầu nuôi con của anh Toàn: Anh T cũng có nguyện vọng được nuôi cháu Nguyễn Phương chi nhưng do cháu Chi đang còn nhỏ nên cháu cần có sự quan tâm chăm sóc của người mẹ hơn bố trong khi đó chị H cũng có nguyện vọng nuôi con. Nên HĐXX không chấp nhận yêu cầu nuôi con của anh Nguyễn Văn T.

Về cấp dưỡng: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn T không yêu cầu nên HĐXX miễn xét.

Về tài sản: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn T kông yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị H làm đơn đề nghị ly hôn đến Tòa án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ đầy đủ các văn bản tố tụng cho anh T, anh biết việc chị H xin ly hôn. Tại phiên tòa ngày 19/9/2018, do anh T vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử đã quyết định hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 227, Điều 233 và 235 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nay căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiếp tục đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh Nguyễn Văn T là đúng quy định của pháp luật.

Về án phí: Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ khoản 4 Điều 147, Điều 271; điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 24; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Nguyễn Văn T.

Về con: Công nhận cháu Nguyễn Phương Chi, sinh ngày 06/3/2017 là con chung của anh Nguyễn Văn T và chị Nguyễn Thị H.

Giao cháu Nguyễn Phương Chi cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi cháu thành niên. Anh T có quyền qua lại, thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng: Chị Nguyễn Thị H, anh Nguyễn Văn T không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000đ( Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2017/0004357 ngày 17 tháng 8 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa. Chị Huệ đã thi hành xong.

Nguyên đơn chị Nguyễn Thị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị đơn anh Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày giao nhận hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 272/2018/HNGĐ-ST ngày 21/09/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:272/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoằng Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về