Bản án 27/2023/HS-ST về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 27/2023/HS-ST  NGÀY 23/05/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Trong ngày 23 tháng 5 năm 2023 tại Nhà văn hóa xã ĐPn - thôn 2, xã ĐPn, huyện KR, tỉnh Kon Tum, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 23/2023/TLST-HS ngày 21 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2023/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 5 năm 2023, đối với bị cáo:

A Th, sinh ngày 15/6/2003 tại tỉnh Kon Tum; trú tại: Thôn 2, Xã ĐPn, huyện KR, tỉnh Kon Tum; Nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hoá 0/12; dân tộc: Ba Na; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông AP (đã chết) và bà YD sinh năm 1982; bị cáo chưa có vợ; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/11/2022 đến nay có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa: Bà Nguyễn Thị Thúy H – Trợ giúp viên pháp lý trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Kon Tum. Địa chỉ: 211 TrHĐ, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum. Có mặt

- Bị hại:

+ AP, sinh năm: 1982 (đã chết) Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Y P1, sinh năm 1956 và bà Bà YD, sinh năm 1982. Cùng trú tại: Thôn 2, xã ĐPn, huyện KR, tỉnh Kon Tum.

Bà YD là người đại diện theo ủy quyền của Bà Y P1. (Theo giấy ủy quyền ngày 22/02/2023). Cả YD và Y P1 đều có mặt Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đại diện bị hại: Bà Đặng Thị Kim Ng - Trợ giúp viên pháp lý trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Kon Tum. Địa chỉ: 211 TrHĐ, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum. Có mặt

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Y P1, sinh năm 1956. Địa chỉ: Thôn 2, xã ĐPn, huyện KR, tỉnh Kon Tum. Có mặt

- Người làm chứng: Ông A Br, sinh năm 1979. Nơi cư trú: thôn 2, xã ĐPn, huyện KR, tỉnh Kon Tum. Có mặt

- Người báo tin về tội phạm: Bà Y M, sinh năm 1980. Nơi cư trú: thôn 2, xã ĐPn, huyện KR, tỉnh Kon Tum. Có mặt

 - Người phiên dịch: Bà Y O – Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ xã ĐPn, huyện KR, tỉnh Kon Tum. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

: Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 27/11/2022, A Th sinh ngày 15/06/2003, trú tại thôn 2, xã P, huyện KR, tỉnh Kon Tum đi bộ từ nhà bà Y P1 về nhà bố mẹ để tìm ông AP sinh năm 1982, trú cùng thôn 2, xã P là bố ruột của mình. Khi đi đến nhà thì gặp ông AP đang ngủ ở chiếu nền sàn tre trong ngôi nhà chòi bằng gỗ. Tại đây, A Th gọi AP dậy và nói: “tại sao uống rượu về cứ đánh mẹ và chửi mẹ”. AP ngồi dậy nói: “tao lấy rựa chém chết mẹ mày và chúng mày bây giờ”. A Th bực tức nên đi ra ngoài lấy 01 cây xà beng dựng ở phía sau nhà và đi vào đứng trước mặt AP, còn AP ngồi trên chiếu. A Th nói:“bố thích không?” và cầm cây xà beng (có một đầu nhọn và một đầu dẹp, dài 1.41m) bằng hai tay đánh 01 (một) cái theo hướng từ phải sang trái trúng vào vùng ngực rồi tiếp tục đánh 02 (hai) cái vào vùng lưng và 02 cái vào vùng đầu của ông AP. Lúc này ông A Br sinh năm 1979, trú cùng thôn, là anh ruột của vợ AP và cũng là hàng xóm bên cạnh cách nhà AP khoảng 50m nghe tiếng cãi nhau nên đi ra phía sau nhà xem. A Br đi đến trước cửa nhà AP xem và nhìn thấy sự việc A Th cầm cây xà beng đánh AP nên nói với A Th: “Thôi đừng đánh bố nữa”. A Th trả lời: “Không liên quan đến bác, bác cút về đi, tôi đang bực tức, tôi sẽ giết chết ông ấy (tức ông AP) trong ngày hôm nay”. Lúc này, A Br thấy AP ngã xuống sàn nhà, trên người chảy máu. Sau đó, A Th bỏ cây xà beng xuống thì ông A Br cầm cây xà beng đi ra ngoài sân vứt bỏ rồi đi thẳng về nhà. Sau khi A Br đi về, AP đi ra ngoài sân thì A Th tiếp tục lấy 01 (một) cây gỗ dài 1,915m ở bờ ruộng đứng phía sau cách AP khoảng hơn 1m và nói: “còn dám làm thế nữa không?”. AP nói: “không dám, không dám nữa”. A Th cầm cây gỗ đánh 04 cái vào vùng lưng của AP làm AP ngã úp mặt xuống đất. Sau khi đánh xong, A Th thấy AP nằm sấp thì gọi nhưng không thấy AP dậy. Sau đó, A Th bỏ về nhà. Sau khi A Th về thì đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, bà Y M, sinh năm 1980, là vợ của ông A Br đi làm rẫy về. Khi đi qua nhà AP thì phát hiện thấy AP nằm bất động ở sân. Khi về nhà, Y M kể việc thấy AP nằm ở sân thì A Br kể lại việc: “nhìn thấy A Th cầm cây xà beng đánh AP”. Y M nghe vậy sợ AP chết nên đã đến Công an xã ĐPn để trình báo. Ngay sau đó, Công an xã đến hiện trường thì phát hiện AP đã chết. Thời gian từ khi A Th đánh AP đến khi Công an xã đến phát hiện AP chết không có ai khác có mặt tại hiện trường.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số: 127/TT-TTPY ngày 29/11/2022 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Kon Tum kết luận: Nguyên nhân chết của AP: Mất máu cấp/ đứt đôi lách + đa chấn thương.

Bản cáo trạng số: 20/CT-VKSKT ngày 21/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kon Tum đã truy tố bị cáo A Th về tội “Giết người” theo quy định tại điểm đ, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kon Tum giữ nguyên cáo trạng. Qua phân tích về hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình phạt: Áp dụng điểm đ, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo A Th từ 18 đến 19 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Không ai yêu cầu gì nên không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy xà beng, cây gỗ, chiếu nhựa, thanh gỗ cơ quan điều tra đã thu giữ.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên mức án 16 năm tù là phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi và các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Kính mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng:

Qua phần tranh tụng tại phiên tòa, bị cáo A Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng, kết luận giám định, biên bản khám nghiệm hiện trường và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định:

Vào khoảng 16 giờ ngày 27/11/2022, A Th đã có hành vi dùng 01 xà beng (dài 1,41m, có 1 đầu nhọn và 1 đầu bẹt) đánh 01 cái vào vùng ngực, 02 cái vào vùng lưng, 02 cái vào vùng đầu; dùng 01 cây gỗ dài 1,915m tiếp tục đánh 04 cái vào vùng lưng của cha đẻ của mình là ông AP. Hậu quả là AP chết do mất máu cấp/ đứt đôi lách + đa chấn thương. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tính mạng của người bị hại với lỗi cố ý trực tiếp nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình.

Hành vi nêu trên của bị cáo A Th đã phạm tội “Giết người” thuộc trường hợp có tính chất côn đồ và giết cha của mình, quy định tại điểm đ, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 như Cáo trạng số 20/CT-VKSKT ngày 21/4/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Kon Tum đã truy tố.

[3]. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, chỉ vì bực tức nhất thời do mẹ bị cáo bị ông AP la mắng, bị cáo đã dùng xà beng và cây gỗ là những hung khí nguy hiểm đánh đập nhiều lần vào những vùng trọng yếu trên cơ thể của cha ruột mình, hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm trái pháp luật đến tính mạng của con người, thể hiện tính côn đồ, tác động xấu đến thuần phong mỹ tục, coi thường pháp luật, coi thường tính mạng của người khác, gây hoang mang, lo sợ trong dư luận quần chúng nhân dân, gây mất an ninh trật tự trị an trên địa bàn. Do đó, cần phải xét xử bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời răn đe phòng ngừa chung trong tình hình tội phạm hiện nay. Tuy nhiên, cũng cần xem các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4]. Xét các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng áp dụng đối với bị cáo:

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bà nội của bị cáo đã bồi thường cho đại diện của bị hại số tiền 20.000.000 đồng; đại diện gia đình của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo có ông nội là người có công với cách mạng; bị cáo sinh sống tại vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, bị cáo không được đi học từ nhỏ nên có một phần nhận thức pháp luật còn hạn chế. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng cho bị cáo được hưởng.

Tình tiết tăng nặng: Sau khi đánh AP nhiều lần bằng xà beng và được A Br can ngăn, lấy xà beng vứt bỏ ra sân; khi thấy AP chưa chết, A Th không dừng lại mà tiếp tục tìm cây gỗ đánh 04 cái vào vùng lưng của AP làm AP ngã úp mặt xuống đất. Hành vi này thể hiện ý chí cố ý thực hiện việc giết bị hại đến cùng của bị cáo, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm e khoản 1 Điều 52 BLHS. Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp người bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm, nên không xem xét.

[6]. Về xử lý vật chứng: Cơ quan CSĐT đã thu giữ: 01 cây gỗ, 01 cây xà beng lục giác (là hung khí mà A Th dùng để đánh AP); 01 (một) chiếc chiếu nhựa màu đỏ (là chiếc chiếu trải trên sàn nhà AP ngồi khi vụ án xảy ra); 01 (một) thanh gỗ không rõ hình dạng (là thanh gỗ bị gãy ra từ cây gỗ mà A Th sử dụng để đánh AP) Những vật chứng nêu trên là hung khí và những vật dụng liên quan đến vụ án không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

[7]. Về án phí: Bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên miễn án phí cho bị cáo.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

: Áp dụng điểm đ, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm e khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo A Th phạm tội “Giết người”.

Xử phạt: Bị cáo A Th 18 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 28/11/2022.

2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu, tiêu hủy:

- 01 (một) cây gỗ có hai đầu nham nhở dài 1,915m, có một bề rộng 4cm và một bề rộng 5cm.

- 01 (một) cây xà beng lục giác dài 1,41m, cạnh lục giác, có một đầu nhọn và một đầu bẹp rộng 7cm.

- 01 (một) chiếc chiếu nhựa màu đỏ kích thước (1,9x1,6m), trên bề mặt chiếu ghi nhận 03 vết màu nâu đỏ (nghi là máu) trên diện rộng kích thước lần lượt là (0,6x0,2)m, (0,2x0,1)m, (0,5x0,3)m.

- 01 (một) thanh gỗ không rõ hình dạng kích thước dài 0,2m, rộng 5cm, dày 2cm.

(Theo như biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/4/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Kon Tum với Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 21; Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí tòa án.

Miễn án phí sơ thẩm cho bị cáo A Th.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2023/HS-ST về tội giết người

Số hiệu:27/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Kon Tum
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:23/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về