Bản án 27/2021/HS-ST ngày 05/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HÀ - TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 27/2021/HS-ST NGÀY 05/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 05 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 24/2021/TLST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2021/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 3 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: K’ B - Tên gọi khác: Không; sinh năm: 1995; tại: Lâm Đồng; nơi ĐKNKTT: Tổ dân phố Srê Nhắc, thị trấn Đinh Văn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng; chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố Srê Nhắc, thị trấn Đinh Văn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc: K’Ho; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông K’Brong, sinh năm: 1963 và bà K’Dối, sinh năm: 1967; vợ K’Điểu, sinh năm: 1996; bị cáo có hai người con lớn nhất sinh năm 2013 và nhỏ nhất sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 22-12-2020 đến nay tại Tổ dân phố Srê Nhắc, thị trấn Đinh Văn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

2. Họ và tên: K’ C - Tên gọi khác: Không; sinh năm: 2002; tại: Lâm Đồng; nơi ĐKNKTT: Tổ dân phố Srê Nhắc, thị trấn Đinh Văn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng; chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố Srê Nhắc, thị trấn Đinh Văn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc: K’Ho; tôn giáo: Tin lành; quốc tịch: Việt Nam; con ông K’Teo, sinh năm: 1973 và bà K’Der, sinh năm: 1970; gia đình bị cáo có 04 anh chị em lớn nhất sinh năm 1989 và nhỏ nhất sinh năm 2002; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 22-12-2020 đến nay tại Tổ dân phố Srê Nhắc, thị trấn Đinh Văn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

- Những người bị hại:

1. Anh Phạm Văn C, sinh năm: 1984 Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

2. Ông Hoàng Tổng Đ, sinh năm: 1958 Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh K’S, sinh năm: 1996 Địa chỉ: Tổ dân phố Đ, thị trấn Đ, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

2. Chị K’H, sinh năm: 1992 Địa chỉ: Tổ dân phố S, thị trấn Đ, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng thời gian từ tháng 9-2020 đến tháng 10-2020 K’B và K’C đã nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người dân tại Thôn Tân Lập, xã Tân Văn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân; cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Vào khoảng 13 giờ 00 ngày 20-9-2020, K’B, sinh năm: 1995 và K’C, sinh năm: 2002 cùng HKTT: TDP Srê Nhắc, TT Đinh Văn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng rủ nhau đi đến xã Tân Văn, huyện Lâm Hà để trộm cắp gà bán lấy tiền tiền tiêu xài. Sau khi thống nhất thì K’B điều khiển xe mô tô không biển số của nhà K’C và mang theo 01 chiếc kìm rồi chở K’Cđi đến địa phận thôn Tân Lập, xã Tân Văn, huyện Lâm Hà để tìm nhà dân sở hở để trồm cắp tài sản. Khi đi trên đường bê tông thì cả hai nhìn thấy nhà ông Phạm Văn Chính, Sinh năm: 1984, HKTT: Thôn Tân Lập, xã Tân Văn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng đang đóng cửa, không có ai ở nhà. Thấy vậy, K’B và K’Ccất giấu xe mô tô ở trong vườn cà phê rồi đi ra phía sau nhà ông Chính dùng kìm cắt hàng rào lưới B40 đột nhập vào khu vực chuồng gà. K’B thấy có 01 con gà chọi màu trắng, xám đang nhốt trong chuồng, trên chuồng gà có để 01 chiếc máy phát cỏ màu đỏ đen nhãn hiệu Mitsubishi TL43, bên cạnh chuồng gà có xích 01 con chó màu vàng, đen.

Thấy vậy, K’B bắt con gà chọi và lấy chiếc máy phát cỏ đưa cho K’C cầm, còn K’B tháo xích chó rồi cả hai mang chó, gà và máy phát cỏ cất giấu tại khu vực bờ suối thôn Tân Lập, xã Tân Văn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng (Một bên bờ suối thuộc địa phận thôn Tân Lập, xã Tân Văn, một bên thuộc địa phận TDP Srê Nhắc, TT Đinh Văn). Sau đó K’C điều khiển xe mô tô đi về nhà ở TDP Srê Nhắc, TT Đinh Văn, huyện Lâm Hà rồi đi bộ xuống bờ suối lấy phao được làm bằng 02 ruột xe ô tô có gắn tấm ván ở trên chèo sang bờ suối thuộc thôn Tân Lập, xã Tân Văn, huyện Lâm Hà nơi K’B đang ngồi đợi. Cả hai đưa chó, gà và máy phát cỏ lên phao vận chuyển qua bờ suối thuộc TDP Srê Nhắc, TT Đinh Văn, huyện Lâm Hà rồi mang về sau nhà K’ Broi cất giấu. Ngày hôm sau K’B lấy 01 chiếc máy phát cỏ bán cho K’S, Sinh năm: 1996, HKTT: TDP Đa Huynh, TT Đinh Văn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng được 950.000 đồng. Sau đó K’B chia cho K’C400.000 đồng, cả hai đã tiêu xài cá nhân hết. Còn 01 con gà và 01 con chó thì K’B mang về nhà thuộc thôn Tân Lin, xã Tân Văn, huyện Lâm Hà để nuôi.

Lần thứ 2: Vào sáng ngày 10-10-2020, K’B và K’Cuống rượu cùng với bạn tại TDP Srê Nhắc, TT. Đinh Văn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Đến khoảng 19 giờ 00 cùng ngày thì K’ Broi điều khiển xe mô tô chở K’Cvề nhà, trên đường đi K’B rủ K’Cđi đến khu vực thôn Tân Lập, xã Tân Văn, huyện Lâm Hà tìm nhà dân sơ hở để trộm cắp gà bán lấy tiền tiêu xài thì K’Cđồng ý. K’B điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave màu xanh, không có biển số của gia đình K’Cchở K’Cđi đến thôn Tân Lập, xã Tân Văn để trộm cắp tài sản, khi đến đoạn đường bê tông thuộc thôn Tân Lập, xã Tân Văn, K’B thấy có 01 nhà dân ở ven đường là nhà ông Hoàng Tổng Đốc, Sinh năm: 1958, HKTT: thôn Tân Lập, xã Tân Văn, huyện Lâm hà, tỉnh Lâm Đồng đã đóng cửa tắt đèn nên K’B và K’C giấu xe mô tô vào trong vườn cà phê rồi đi đến hàng rào lưới B40 của nhà ông Đốc, K’B lấy 01 cây kìm trong túi áo đưa cho K’C để cắt hàng rào lưới B40, rồi cả hai lẻn vào phía sau nhà ông Đốc để tìm gà nhưng không thấy, thấy sau nhà ông Đốc có cánh cửa bằng khung sắt được khóa bằng ổ khóa Việt Tiệp nên đã thay nhau dùng kìm bẻ gãy bộ phận gắn ổ khóa rồi mở cửa đi vào trong nhưng không thấy tài sản gì. Sau đó, K’B và K’C nhìn qua khe cửa sổ của nhà kho thì thấy bên trong có nhiều bao tải đựng cà phê màu xanh chất thành đống nên cả hai bàn nhau cùng vào trong lấy trộm cà phê. K’B và K’C thay nhau cầm kìm bẻ gãy bộ phận gắn ổ khóa Việt Tiệp và mở cửa kho đi vào bên trong, K’B và K’C đã vác lần lượt mỗi người 06 lần được 12 bao cà phê ra cất giấu tại bờ suối thuộc thôn Tân Lập, xã Tân Văn. K’B ở lại trông coi, còn K’Cthì điều khiển xe mô tô đi về nhà rồi đi bộ xuống bờ suối phía sau nhà mình thuộc TDP Srê Nhắc, TT Đinh Văn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng lấy 01 chiếc phao được làm bằng ruột xe ô tô có gắn tấm ván ở trên của người dân thường sử dụng để đi đánh bắt cá có sẵn ở bờ suối rồi dùng 01 cây sào chèo qua suối đến chỗ của K’B đang đợi. Sau đó K’B và K’C cùng nhau vác các bao cà phê đặt lên phao vận chuyển qua suối mang về cất giấu trong nhà bà K’H, Sinh năm: 1992, HKTT: TDP Srê Nhắc, TT Đinh Văn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng ở gần nhà K’ Chung, sau đó cả hai đổ số cà phê này ra nền nhà bà K’H lúc này không có người ở rồi dùng vỏ bao tải che vào các khe hở của nhà gỗ để tránh bị phát hiện rồi đi về nhà ngủ. Đến sáng ngày hôm sau Cơ quan Công an huyện Lâm Hà phát hiện và thu giữ toàn bộ số tang vật trên với trọng lượng là 601 kg cà phê quả khô, loại cà phê Robusta.

Vật chứng thu giữ: 01 chiếc máy phát cỏ màu đỏ - đen nhãn hiệu Mitsubishi TL43; 01 con chó becgie màu vàng - đen nặng 14 kg; 01 con gà chọi nặng 2,4kg; 601 kg cà phê Robusta quả khô; 01 chiếc kìm bằng kim loại màu đen có vỏ bọc ở cán màu xanh, kích thước 27 cm x 4cm; 01 ổ khóa Việt Tiệp màu đen, kích thước 5,2 cm x 4 cm x 1,1 cm; 01 ổ khóa Việt Tiệp màu đen, kích thước 6,2 cm x 4,2 cm x 1,9 cm.

Ngày 19-10-2020, Hội đồng định giá tài tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lâm Hà có bản kết luận số 112/HĐĐG kết luận: 01 chiếc máy phát cỏ màu đỏ - đen nhãn hiệu Mitsubishi TL43; 01 con chó becgie màu vàng - đen nặng 14 kg; 01 con gà chọi nặng 2,4kg có tổng giá trị là 2.802.000 đồng. 601 kg cà phê Robusta quả khô có giá trị là 9.015.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Ngày 22-12-2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trao trả 01 chiếc máy phát cỏ màu đỏ - đen nhãn hiệu Mitsubishi TL43; 01 con chó becgie màu vàng - đen nặng 14 kg; 01 con gà chọi nặng 2,4kg cho ông Phạm Văn C; trao trả 601 kg cà phê Robusta quả khô cho ông Hoàng Tổng Đốc.

Về trách nhiệm dân sự: Ông Phạm Văn C và ông Hoàng Tổng Đ đã nhận được tài sản và không yêu cầu gì thêm. Ông K’S đề nghị bồi thường lại số tiền 950.000 đồng là tiền mà K’S đã bỏ ra để mua chiếc máy phát cỏ từ K’ B, ngoài ra không có yêu cầu gì khác.

Tại bản cáo trạng số 25/CT-VKS ngày 11-3-2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng để xét xử các bị can K’B, K’C về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố, không thắc mắc hay khiếu nại gì về bản cáo trạng.

Người bị hại ông Phạm Văn C và ông Hoàng Tổng Đ đã nhận được tài sản và không yêu cầu gì thêm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh K’S khai cũng đã được nhận lại số tiền bỏ ra để mua máy phát cỏ nên không có yêu cầu gì.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo K’ B cùng đồng phạm về tội: “Trộm cắp tài sản”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo K’B từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo K’C từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại ông Phạm Văn C, ông Hoàng Tổng Đ đã nhận được tài sản; đối với người liên quan anh K’S đã nhận lại số tiền bỏ ra để mua máy phát cỏ nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy 01 chiếc kìm bằng kim loại màu đen có vỏ bọc ở cán màu xanh, kích thước 27 cm x 4cm; 01 ổ khóa Việt Tiệp màu đen, kích thước 5,2 cm x 4 cm x 1,1 cm; 01 ổ khóa Việt Tiệp màu đen, kích thước 6,2 cm x 4,2 cm x 1,9 cm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lâm Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người liên quan và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Có đủ căn cứ kết luận: Vào khoảng 13 giờ 00 phút ngày 20-9-2020 các bị cáo K’B và K’C đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc máy phát cỏ màu đỏ - đen nhãn hiệu Mitsubishi TL43; 01 con chó becgie màu vàng - đen nặng 14 kg; 01 con gà chọi nặng 2,4kg của ông Phạm Văn Chính. Tiếp đó vào khoảng 19 giờ 00 ngày 10-10-2020, K’B và K’C lại lén lút chiếm đoạt 601 kg cà phê Robusta quả khô của ông Hoàng Tổng Đ. Tổng giá trị tài sản là 11.817.000 đồng (Mười một triệu tám trăm mười bảy ngàn đồng). Do đó, có đủ cơ sở kết luận các bị cáo K’B và K’C phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Đúng với kết luận luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng giữ quyền công tố tại phiên tòa hôm nay.

[3] Xét về tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được luật pháp nhà nước ta bảo vệ, cụ thể trong vụ án này tài sản của người bị hại anh Phạm Văn C và ông Hoàng Tổng Đ bị xâm phạm.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo nhận thức được hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại là vi phạm pháp luật hình sự nhưng vì tham lam, muốn có tiền tiêu xài không phải bằng sức lao động của mình và muốn có tài sản để sử dụng, các bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản để thực hiện hành vi chiếm đoạt. Hành vi của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự, trị an tại địa phương, các bị cáo phạm tội do lỗi cố ý trực tiếp và có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do đó, cần xử phạt các bị cáo mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân các bị cáo, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo suy nghĩ lại hành vi phạm tội của mình, giáo dục riêng các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về đồng phạm: Vụ án mang tính chất đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo K’B là ngưởi khởi xướng, rủ rê, lôi kéo bị cáo K’C cùng phạm tội; bị cáo K’C có vai trò giúp sức tích cực và cùng thực hiện hành vi phạm tội với bị cáo K’B; sau khi thực hiện hành vi phạm tội thì bị cáo K’B được chia nhiều hơn so với K’C nên mức hình phạt của bị cáo K’B phải cao hơn bị cáo K’C.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Các bị cáo K’B và K’C đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản 02 lần nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tuy nhiên Hội đồng xét xử cũng cần xem xét cho các bị cáo K’B và K’C có các tình tiết giảm nhẹ là: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; các bị cáo là người dân tộc thiểu số, trình độ học vấn thấp nên các bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, để giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt thể hiện tính nhân đạo và chính sách khoan hồng của pháp luật Nhà nước ta.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo làm nông thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Đối với anh K’S mua chiếc máy phát cỏ của K’B bán thì anh K’S không biết đó là tài sản do người khác phạm tội mà có nên khi sự việc bị phát hiện đã nộp lại cho cơ quan điều tra nên không có căn cứ để xử lý hình sự đối với anh K’S.

Việc K’B và K’Csau khi lấy trộm cà phê tập kết ở nhà chị K’H. Tại thời điểm này chị K’H và gia đình không sinh sống tại đây nên không biết sự việc do đó không có căn cứ để xử lý hình sự đối với chị K’H.

Đại diện viện kiểm sát đề nghị mức hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp, có căn cứ pháp luật.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa những người bị hại ông Phạm Văn C, ông Hoàng Tổng Đ đã nhận được tài sản, không có yêu cầu gì thêm; đối với người liên quan anh K’S đã nhận lại số tiền bỏ ra để mua máy phát cỏ nên không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.

[8] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 chiếc kìm bằng kim loại màu đen có vỏ bọc ở cán màu xanh, kích thước 27 cm x 4cm; 01 ổ khóa Việt Tiệp màu đen, kích thước 5,2 cm x 4 cm x 1,1 cm; 01 ổ khóa Việt Tiệp màu đen, kích thước 6,2 cm x 4,2 cm x 1,9 cm đã qua sử dụng. Xét thấy, đây là những vật chứng không còn giá trị sử dụng và người bị hại không có ý kiến gì nên cần tịch thu tiêu hủy.

[9] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 [1] Tuyên bố: Các bị cáo K’B và K’C phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

 Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Bị cáo K’B: 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo tự nguyện thi hành án hoặc bắt giam thi hành án.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Bị cáo K’C: 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo tự nguyện thi hành án hoặc bắt giam thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[2] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy: với 01 chiếc kìm bằng kim loại màu đen có vỏ bọc ở cán màu xanh, kích thước 27 cm x 4cm; 01 ổ khóa Việt Tiệp màu đen, kích thước 5,2 cm x 4 cm x 1,1 cm; 01 ổ khóa Việt Tiệp màu đen, kích thước 6,2 cm x 4,2 cm x 1,9 cm đã qua sử dụng (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15-3-2021).

[3] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2017; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, người liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2021/HS-ST ngày 05/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:27/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Hà - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về