Bản án 27/2021/HS-PT ngày 26/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 27/2021/HS-PT NGÀY 26/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY  

Trong ngày 26 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử công khai vụ án Hình sự phúc thẩm thụ lý số: 59/2021/TLPT-HS ngày 27 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo Lê Minh H do có kháng cáo của bị cáo Lê Minh H đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 33/2021/HS-ST ngày 25/03/2021 của Tòa án nhân dân thị xã TC, tỉnh An Giang.

- Bị cáo có kháng cáo:

Lê Minh H, sinh năm 1991, tại thị xã TC, tỉnh An Giang; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp 1, xã VX, thị xã TC, tỉnh An Giang; chỗ ở hiện nay: Ấp 5, xã VX, thị xã TC, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Phụ giúp gia đình; trình độ văn hóa: 12/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lê Thái S, sinh năm 1963 và bà Bùi Thị Hồng X, sinh năm 1969; có vợ tên Nguyễn Thị Thúy L, sinh năm 1994 (đã ly hôn); có 01 người con, sinh năm 2017 ; bị cáo chưa có tiền án, tiền sự;

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 30/10/2020 cho đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 00 ngày 30/10/2020, Lê Minh H điện thoại cho Đặng Văn C (C Pê đê) nhờ mua dùm 1.000.000 đồng ma túy đá, sau khi mua ma túy xong, Chí hẹn H đến khu vực ấp 5, xã VX, thị xã TC để nhận ma túy, H điều khiển xe mô tô, biển kiểm soát 67H1 - 555.01 của bà Bùi Thị Hồng X (mẹ ruột của H) đến chỗ hẹn gặp Chí để nhận 01 bọc nilon, bên trong có chứa ma túy. Sau đó, H điều khiển xe mô tô đến khu vực tổ 11, ấp 5, xã VX, thị xã TC thì Tổ liên ngành số 6 và Bộ đội biên phòng xã VX tuần tra, phát hiện H có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu H dừng xe để kiểm tra, H không chấp hành hiệu lệnh nên đã bỏ chạy vào nhà ông Nguyễn Văn S1 và ném bọc nilon, bên trong có chứa ma túy vào thau nước, Tổ liên ngành số 6 và Bộ đội biên phòng xã VX đã bắt giữ được H, cùng với bọc nilon. H thừa nhận bên trong bọc nilon là ma túy đá, mua về để sử dụng nên đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lê Minh H về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ kết luận giám định số 273/KLGT-PC09 ngày 05/11/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An Giang: Mẫu M gửi đến giám định là ma túy, loại: Methamphetamine, có khối lượng: 1,0621 gam.

Ngày 06/11/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã TC, khởi tố Lê Minh H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Bản Cáo trạng số 04/CT-VKSTC ngày 29/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã TC truy tố Lê Minh H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số: 33/2021/HS-ST ngày 25 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân thị xã TC, tỉnh An Giang đã quyết định:

Căn cứ điểm c, khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo: Lê Minh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Xử phạt: Lê Minh H 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt của bị cáo được tính kể từ ngày tạm giữ 30/10/2020.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng trong vụ án, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi Tòa án nhân dân thị xã TC xét xử sơ thẩm, ngày 02 tháng 4 năm 2021, bị cáo Lê Minh H có đơn kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt tù cho bị cáo. Đồng thời bị cáo có cung cấp cho Tòa án các tài liệu, chứng cứ gồm: 01 đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo do 38 người sống cùng nơi cư trú với bị cáo ký tên trong đơn, có xác nhận của các cơ quan, đoàn thể của xã VX gồm Hội Liên hiệp phụ nữ, Xã Đoàn, Hội nông dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã VX; bản sao chứng nhận Kỷ niệm chương Cựu chiến binh Việt Nam cấp cho ông Lê Văn H1 (ông nội của bị cáo); giấy xác nhận của Hội Cựu chiến binh xã VX về quá trình tham gia cách mạng của ông Lê Văn H1.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Lê Minh H thừa nhận có thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu. Bị cáo không tranh luận, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

- Kiểm sát viên thực hành quyền công tố Nhà nước tại phiên tòa phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án:

+ Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo H có nội dung rõ ràng, gửi trong thời hạn luật định, nên có cơ sở xem xét theo trình tự phúc thẩm.

+ Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa phúc thẩm có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lê Minh H phạm tội “Tàng trữ trái phép trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng về vai trò của bị cáo trong vụ án và các tình tiết giảm nhẹ trách hình sự đối với bị cáo, xử phạt bị cáo 02 năm tù là có căn cứ.

Tuy nhiên, qua xem xét các tài liệu do bị cáo giao nộp giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm như: Đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo do nhiều người cùng nơi sinh sống của bị cáo ký tên trong đó nêu rõ bị cáo có nhân thân tốt, đối xử lễ phép với mọi người, trong đơn còn có xác nhận của các cơ quan, ban ngành của xã VX như Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Nông dân, Hội cựu chiến binh, ban chấp hành Đoàn, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã VX; giấy xác nhận của Hội cựu chiến binh xã VX về việc bị cáo có ông nội là Lê Văn H1, là người có nhiều năm tham gia cách mạng, được tặng Kỷ niệm chương Cựu chiến binh, nên được xem là tình tiết giảm nhẹ mới được quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b, khoản 1 Điều 355; điểm c, khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo; sửa Bản án sơ thẩm số 33/2021/HSST ngày 25/3/2021 của Tòa án nhân dân thị xã TC.

Xử phạt bị cáo Lê Minh H 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị cáo Lê Minh H nộp đơn kháng cáo ngày 02 tháng 4 năm 2021, đơn kháng cáo còn trong hạn luật định, có nội dung rõ ràng, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận và xem xét theo thủ tục phúc thẩm. [2] Về nội dung:

Lời khai của bị cáo Lê Minh H tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo, người làm chứng trong giai đoạn điều tra, phù hợp với các chứng cứ và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Do đó, có cơ sở kết luận bị cáo Lê Minh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Về yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy:

Bị cáo Lê Minh H là người đã trưởng thành, nhận thức được việc mua bán, trao đổi, tàng trữ, sản xuất, vận chuyển trái phép chất ma túy đều bị pháp luật nghiêm cấm.

Bản thân bị cáo đã nghiện ma túy nhưng không tự nguyện khai báo với chính quyền địa phương, không đăng ký hình thức cai nghiện, mà mua ma túy để tàng trữ nhằm sử dụng thỏa mãn cơn nghiện, bất chấp sự ngăn cấm của pháp luật.

Số ma túy bị cáo tàng trữ trái phép có khối lượng 1,0621 gam, loại Methamphetamine (còn gọi là Ma túy đá), đây là một dạng ma túy tổng hợp, là chất gây nghiện cực kỳ nguy hiểm, bởi nó có tác hại rất lớn đến trí tuệ, sức khỏe, tính mạng của con người, nó làm cho người sử dụng không thể kiểm soát được hành vi của bản thân và có những hành vi xâm phạm đến tài sản, tính mạng, sức khỏe của người khác, gây mất trật tự trị an ở địa phương. Hành vi của bị cáo thể hiện sự xem thường pháp luật, nên cần phải áp dụng hình phạt tù nghiêm đối với các bị cáo để răn đe, giáo dục và để phòng ngừa chung.

Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Lê Minh H 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuy” là có đánh giá đúng về tính chất, mức độ hành vị của bị cáo đã thực hiện, có xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo quy định tại điểm s, khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuy nhiên, xét thấy sau khi Tòa án nhân dân thị xã TC, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm, bị cáo có kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo có cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ như: Đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo do 38 người cùng nơi sinh sống của bị cáo ký tên trong đó nêu rõ bị cáo có nhân thân tốt, xử sự lễ phép đối với mọi người, trong đơn còn có xác nhận của các cơ quan, ban ngành của xã VX, thị xã TC như Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Nông dân, Hội cựu chiến binh, Đoàn thanh niên, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã VX; giấy xác nhận của Hội cựu chiến binh xã VX về việc bị cáo có ông nội là Lê Văn H1, là người có nhiều năm tham gia cách mạng, được tặng Kỷ niệm chương Cựu chiến binh. Những tài liệu này được cung cấp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải, nên được xem là tình tiết mới về giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận giảm một phần hình phạt đối với bị cáo như đề nghị của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa.

Đối với các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 33/2021/HSST ngày 25/3/2021 của Tòa án nhân dân thị xã TC, tỉnh An Giang không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo được chấp nhận, nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì những lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b, khoản 1 Điều 355; điểm c, khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Minh H; sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 33/2021/HSST ngày 25/3/2021 của Tòa án nhân dân thị xã TC, tỉnh An Giang.

Căn cứ điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự;

Tuyên bố bị cáo Lê Minh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Lê Minh H 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính kể từ ngày 30/10/2020.

Căn cứ khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lê Minh H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm số 33/2021/HSST ngày 25/3/2021 của Tòa án nhân dân thị xã TC, tỉnh An Giang không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2021/HS-PT ngày 26/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:27/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về