Bản án 27/2021/HS-PT ngày 14/04/2021 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 27/2021/HS-PT NGÀY 14/04/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 14 tháng 04 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 28/2021/HSPT ngày 05 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo Bùi T N và Nguyễn T B, do có kháng cáo của bị cáo Bùi T N và Nguyễn T B đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 67/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 của Tòa án nhân dân thị xã M, tỉnh Vĩnh Long.

Bị cáo có kháng cáo:

Bùi T N (tên gọi khác: N C), sinh năm 1999, tại tỉnh Vĩnh Long. Nơi cư trú: Tổ 18, ấp H, xã Đ B, thị xã M, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: phụ hồ; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi T N và bà Châu T K A; có vợ Nguyễn T K N; tiền án, tiền sự: không; bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Nguyễn T B, sinh năm 1996, tại tỉnh T. Nơi cư trú: số 34/1, ấp H, xã N, huyện S, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: làm vườn; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn V D và bà Nguyễn T L; tiền án, tiền sự: không; bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Lê H Đ, sinh năm 1994; Nơi cư trú: ấp B, xã T, thị xã M, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 20/4/2020, Lê H Đ ngồi uống rượu bia cùng với Nguyễn N H, Nguyễn P S và Trương N H ở phía trước nhà trọ Ánh Sương thuộc tổ 19, khóm A, phường V, thị xã M, tỉnh Vĩnh Long. Lúc này có Lý T H chạy xe đến tìm H để lấy tiền mua thẻ cào điện thoại mà H chưa trả tiền, khi H đến thì H có hỏi H “đến làm gì” thì giữa H và H xảy ra cự cải, H dùng chân vào đạp xe của H ngã và dùng tay đánh H nên H bỏ xe chạy, khi chạy đến khu vực quán nhậu 557 cách nhà trọ Ánh Sương khoảng 100m thì H gọi điện thoại cho Bùi T N nói là đang bị người khác đánh và kêu N lấy “đồ” đem đến cho H. Lúc này N đang ở nhà trọ cùng với Nguyễn T B (H, B và N thuê phòng ở chung với nhau), nên N liền nói lại cho Bảo nghe việc H bị người khác đánh, nên kêu đem hung khí đến cho H; B nghe xong liền đồng ý tham gia phụ giúp, nên N kêu B mặc áo vào và dẫn xe ra để chở N đi, còn N thì đi vào nhà trọ lấy 01 cây gậy bóng chày và 01 cây dao tự chế (loại dao tự chế có vỏ bằng ống tuýp, lưỡi dao được gắn với đoạn ống tuýp) đem theo.

Còn H, khi gọi điện thoại cho N xong thì thấy Đ điều khiển xe mô tô chở H đến khu vực gần quán 557 tìm H. Khi gặp H thì Đ kêu H quay lại lấy xe, cùng lúc H xuống xe nắm cổ áo H kéo về trước nhà trọ Ánh Sương, còn Điền chạy xe về. Lúc này B điều khiển xe mô tô chở N vừa đến trước cửa nhà trọ Ánh Sương. Điền thấy N cầm cây dao tự chế và cây gậy bóng chày, nên Đ giả vờ nói “Tao là công an nè, mấy thằng bây đi chung với nó phải không, bắt mấy thằng mày đem về phường hết”, nghe vậy nên N và B nghĩ Đ là cán bộ công an thật nên không hành động gì, Đ liền chụp lấy cây gậy bóng chày và cây dao tự chế trên tay của N. Thấy vậy H liền đẩy H ra trong khi đang bị nắm cổ áo và chạy đến chỗ Đ chụp lấy ống tuýp và cây dao từ tay Đ, H cầm cây dao đâm và chém trúng vào vùng mặt, vào bụng của Đ nên Đ và H cùng bỏ chạy, H đuổi theo một đoạn, không đuổi kịp nên dừng lại và quay về lấy xe cùng với N và B đi về. Điền bị thương khi về nhà trọ Ánh Sương thì được đưa đi cấp cứu và điều trị vết thương.

Ngày 23/4/2020, Đ làm đơn yêu cầu khởi tố hình sự để xử lý đối với Lý T H.

Căn cứ bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 66/2020/TgT ngày 27/5/2020 của Trung tâm pháp y – Sở Y tế Vĩnh Long xác định thương tích của Lê H Đ như sau: vết thương má trái kích thước 2,5x0,1cm; tổn thương tuyến nước bọt mang tai trái gây rò nước bọt kéo dài; vết thương hông trái kích thước 2x0,1cm. tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 24%.

Về vật chứng thu giữ gồm: 01 cây dao tự chế có cán dài 14,5cm, lưỡi dao dày 34cm (lưỡi dao đã bị gãy) và 01 ống tuýp sắt dài 42,5cm có quấn bằng keo màu đen bên ngoài.

Sau khi sự việc xảy ra, Lý T H, Bùi T N và Nguyễn T B đã thỏa thuận bồi thường cho Lê H Đ số tiền 34.770.000 đồng, trong đó H bồi thường 19.770.000đồng, N bồi thường 10.000.000đồng và B bồi thường 5.000.000đồng. Ngày 24/11/2020 Lý T H nộp số tiền 3.000.000đồng; Bùi T N nộp số tiền 8.000.000đồng; Nguyễn T B nộp số tiền 5.000.000đồng cho Cơ quan điều tra để bồi thường cho bị hại, số tiền này cơ quan điều tra đã giao lại cho Lê H Đ nhận ngày 26/11/2020.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 67/2020/HS-ST ngày 30 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân thị xã M, tỉnh Vĩnh Long đã quyết định:

1. Tuyên bố bị cáo Bùi T N và Nguyễn T B phạm tội “Cố ý gây thương tich”.

2. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 và các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 17, Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Bùi T N 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi chấp hành án.

. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 và các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 17, Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn T B 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi chấp hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn xử phạt Lý T H 01 năm 06 tháng tù; quyết định về bồi thường thiệt hại, về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 01/01/2021, bị cáo Lý T H kháng cáo với nội dung xin giảm hình phạt.

Ngày 13/01/2021, bị cáo Bùi T N và Nguyễn T B có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

Đến ngày 25 tháng 01 năm 2021 bị cáo Lý T H có đơn xin rút toàn bộ kháng cáo.

Vào ngày 26 tháng 02 năm 2021 Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long ra Thông báo về việc Lý T H có đơn xin rút toàn bộ kháng cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm Kiểm sát viên, các bị cáo trình bày như sau:

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: tại phiên tòa phúc thẩm 2 bị cáo Bùi T N và Nguyễn T B khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung vụ án. Do đó, việc cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội cố ý gây thương tích theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là có cơ sở.

Cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo. Mặc dù, tại cấp phúc thẩm bị cáo N có bồi thường thêm cho bị hại 2.000.000 đ. Nhưng cấp sơ thẩm chỉ xử phạt 2 bị cáo mỗi bị cáo 06 tháng tù, là đã quá chiếu cố nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận đơn kháng cáo của 2 bị cáo và giữ y án sơ thẩm; đồng thời buộc 2 bị cáo nộp án phí.

Các bị cáo trình bày:

Bị cáo Bùi T N trình bày: bị cáo đang ở phòng trọ thì H gọi điện thoại kêu bị cáo lấy đồ, bị cáo biết là lấy cây gậy bóng chày và con dao đem cho H vì H đang bị đánh. Bị cáo nói lại cho B nghe và kêu B lấy xe chở bị cáo đến chỗ bị cáo H. Bị cáo đã biết tội, xin giảm hình phạt và được hưởng án treo.

Bị cáo Nguyễn T B trình bày: khi nghe Nhân nói H bị người khác đánh điện thoại kêu N đem hung khí cho H, bị cáo đồng ý chở N đem hung khí cho H. B ị cáo đã biết tội, xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

Anh Lê H Đ không triệu tập nhưng tự ý đến và trình bày: sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo N đã bồi thường thêm 2.000.000đ, như vậy là bị cáo N đã bồi thường đủ cho anh. Bị cáo Bảo đã bồi thường xong cho anh ở cấp sơ thẩm, tại phiên tòa hôm nay, anh yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho 2 bị cáo.

Các bị cáo nói lời sau cùng:

Bị cáo Bùi T N và Nguyễn T B nói lời sao cùng: xin giảm nhẹ hình phạt và cho được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Bùi T N và Nguyễn T B khai nhận:

Khong hơn 21 giờ 30 phút ngày 20/4/2020 bị cáo H điện thoại kêu bị cáo N đem hung khí đến nhà trọ Ánh Sương để H đánh trả thù. Sau đó bị cáo N lấy 01 cây gậy bóng chày và 01 cây dao tự chế (loại dao tự chế có vỏ bằng ống tuýp, lưỡi dao được gắn với đoạn ống tuýp) rồi kêu bị cáo Bảo điều khiển xe chở N đem hung khí cho bị cáo H. Khi thấy bị cáo N đến do tức giận từ việc bị H đánh nên H đã chụp lấy cây dao tự chế là hung khí nguy hiểm đâm, chém trúng vùng mặt và bụng của bị hại Đ, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra là 24%.

Do đó, việc cấp sơ thẩm quy kết bị cáo Bùi T N và Nguyễn T B Phạm vào tội: “Cố ý gây thương tích”, theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm nghiêm trọng đến sức khoẻ của con người được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự, trị an ở địa phương. Khi nhận được yêu cầu từ Lý T H lấy “đồ” đem đến cho H vì bị người khác đánh. Bị cáo N liền nói lại cho B nghe và đồng ý tham gia phụ giúp, B chạy xe chở N đi, N đem theo 01 cây gậy bóng chày và 01 cây dao tự chế (loại dao tự chế có vỏ bằng ống tuýp, lưỡi dao được gắn với đoạn ống tuýp). Khi gặp H, rồi anh Đ tước lấy hung khí, sau đó, H giật lại từ tay anh Đ và dùng dao gây thương tích cho anh Đ, nên 2 bị cáo N và B mặc dù không trực tiếp gây thương tích cho anh Đ, nhưng cũng phải chịu trách chung về hậu quả do hành vi của H gây ra, với vai trò đồng phạm giúp sức.

Do vậy cần phải có thời gian cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội để giáo dục riêng đối với các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Khi quyết định hình phạt Tòa án sơ thẩm đã có xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do các bị cáo thực hiện và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho 2 bị cáo.

Tại cấp phúc thẩm bị cáo N cung cấp là đã bồi thường đủ như án sơ thẩm, nhưng xét 2 bị cáo bị xét xử theo khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt từ 02 năm đến 06 năm, ở đây cấp sơ thẩm chỉ xử phạt 2 bị cáo mỗi bị cáo 06 tháng tù, là đã quá nhẹ. Do đó, các quyết định của bản án sơ thẩm là có căn cứ pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin được giảm hình phạt và hưởng án treo đối với các bị cáo.

[4] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đề nghị không chấp nhận đơn kháng cáo của 2 bị cáo là có cơ sở;

[5] Về án phí: do kháng cáo không được chấp nhận nên 2 bị cáo chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tuyên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi T N và Nguyễn T B và giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 67/2020/HS-ST, ngày 30 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân thị xã M, tỉnh Vĩnh Long.

. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 và các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54, Điều 17, Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Bùi T N 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo tự nguyện chấp hành hình phạt hoặc từ ngày bắt bị cáo chấp hành hình phạt.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn T B 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo tự nguyện chấp hành hình phạt hoặc từ ngày bắt bị cáo chấp hành hình phạt.

Cả hai bị cáo đều bị xét xử về tội: cố ý gây thương tích.

4. Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm b khoản 2 Điều 23, của Nghị quyết số: 326/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Bùi T N và bị cáo Nguyễn T B mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2021/HS-PT ngày 14/04/2021 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:27/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về