TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, NINH BÌNH
BẢN ÁN 27/2020/HS-ST NGÀY 21/05/2020 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI
Ngày 21 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự thụ lý số 20/2020/TLST- HS ngày 31 tháng 03 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2020/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 05 năm 2020 đối với bị cáo:
Dương Quý T, sinh năm 1999 (Tên gọi khác: Không). Nơi ở và ĐKNKTT: Thôn T, xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Giới tính: Nam;Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Không; con ông Dương Quý Nghĩa (đã chết) và bà Nguyễn Thị Minh Thường, sinh năm 1978. Vợ, con: Chưa có. Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
- Bị hại: Cháu Vũ Thị Kim N, sinh ngày 12/02/2006.
- Người đại diện hợp pháp của cháu Ngân: Chị Đinh Thị M, sinh năm 1988 và anh Vũ Văn H, sinh năm 1983. Nơi ĐKHKTT: Thôn M, xã T, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Hiện đều trú tại: Thôn T, xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình.
(Anh H ủy quyền cho chị M theo văn bản ủy quyền ngày 11/2/2020)
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cháu Ngân: Bà Lê Thị Thu H- Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Ninh Bình.
- Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị Minh T, sinh năm 1978.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Dương Quý T và cháu Vũ Thị Kim N, sinh ngày 12/02/2006 trú tại thôn M, xã T, huyện N quen biết với nhau thông qua mạng xã hội Facebook từ năm 2018 và nảy sinh tình cảm nam nữ.
Tối ngày 04/02/2020, cháu Vũ Thị Kim N mượn chiếc điện thoại nhãn hiệu SamSung J4 màu vàng của bà Đinh Thị M (mẹ cháu N) để đăng nhập vào tài khoản Facebook Messenger mang tên “Ngân Cô lô nhuê’x” để nhắn tin nói chuyện với Dương Quý T sử dụng tài khoản Facebook Messenger mang tên “Dương Bảo Trọng” trên điện thoại nhãn hiệu Iphone 6S màu bạc. Trong quá trình nói chuyện Dương Quý T muốn gặp mặt nhau ngoài đời nên Trọng đã chủ động rủ cháu N đi chơi cùng mình thì cháu N đồng ý. Khoảng 21 giờ cùng ngày, Dương Quý T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển kiểm soát: 35N1-399.40 đi đến đường trước cửa quán quán cắt tóc “Spa Hải Ly” ở thôn T, xã V, huyện N để đón cháu N. Sau đó, Trọng chở cháu N đi trên đường Quốc lộ 12B rồi rẽ vào đoạn đường 7 thuộc địa phận thôn T, xã V, huyện N thì dừng lại. Dương Quý T dựng chân trống giữa xe mô tô lên rồi cùng ngồi trên xe với cháu N tâm sự được khoảng vài phút thì T và cháu N ôm hôn nhau. Trong khi hôn thì T đã nảy sinh ham muốn quan hệ tình dục với cháu N nên T bước xuống xe đứng dưới đường đối diện với cháu N, T dùng tay kéo áo ngoài, áo lót của cháu N lên phía trên đồng thời sử dụng miệng và tay phải để hôn và sờ vào ngực cháu N và gạ gẫm quan hệ tình dục thì cháu Vũ Thị Kim N đồng ý. Dương Quý T sử dụng tay phải luồn xuống bên dưới để sờ vào âm hộ của cháu N nhưng do cháu N có mang dây thắt lưng nên T nói “Nới dây lưng ra”. Do lúc này cháu N có tình cảm với T nên khi T có ham muốn giao cấu với mình thì cháu Ng không phản kháng mà tự nguyện nới dây lưng của mình ra. Dương Quý T đã dùng tay phải sờ vào âm hộ của cháu N đồng thời T sử dụng ngón tay giữa bên phải của mình cọ sát vào bên trong âm hộ của cháu N khoảng vài phút rồi dùng tay cởi quần dài, quần lót của cháu N ra và để lên tay lái bên phải xe mô tô của T và tự mình cởi quần dài, quần lót của T ra và tụt xuống đầu gối. Dương Quý T sử dụng tay phải cầm dương vật đã cương cứng của mình ấn sâu vào trong âm hộ của cháu N để giao cấu trong tư thế T đứng dưới đường đối diện với cháu N, còn cháu N ngồi trên xe mô tô của T. Dương Quý T giao cấu với cháu N được khoảng 20 phút thì xuất tinh vào bên trong âm hộ của cháu N. Tại thời điểm Dương Quý T thực hiện hành vi giao cấu với cháu Vũ Thị Kim N đang ở độ tuổi 13 năm 11 tháng 23 ngày. Sau khi giao cấu xong với cháu N thì T và cháu N mặc quần lại và ngồi nói chuyện một lúc, sau đó Trọng điều khiển xe mô tô chở Ngân về địa điểm mà Tđã đón N (Quán cắt tóc Spa Hải Ly) để N tự đi bộ về nhà. Đến chiều ngày 05/02/2020, T và cháu N tiếp tục nhắn tin với nhau thông qua tài khoản Facebook Messenger như trên để hẹn gặp nhau. Khoảng 21 giờ cùng ngày, Dương Quý T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát:
35N1-399.40 đến đường thuộc cánh đồng thôn T, xã V (trước cửa nhà cháu N) để gặp cháu N thì lúc này gia đình cháu N biết sự việc đã yêu cầu T vào nhà để nói chuyện. Tại gia đình cháu N, T đã thừa nhận việc mình đã giao cấu với cháu N vào tối ngày 04/02/2020.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về giới tính số 004/2020/SD-TTPY ngày 10/02/2020 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Ninh Bình kết luận đối với Dương Quý T:
“1. Cấu trúc cơ quan sinh dục ngoài: Bình thường, không có tổn thương.
2. Chức năng sinh lý bình thường.
3. Bệnh lý khác: HIV (-) âm tính, HbsAg (-) âm tính, HCV (-) âm tính./.” Tại Bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 003/2020/SD-TTPY ngày 10/02/2020 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Ninh Bình kết luận đối với cháu Vũ Thị Kim N:
“1. Màng trinh kiểu “Băng rua”. Không có vết rách mới, có vết rách cũ tại các vị trí 1;3;5;7;9;12 giờ. Hiện tại không xác định được thời gian tổn thương.
2. Trạng thái cơ quan sinh dục, bờ mép vết rách của màng trinh và sự giãn rộng lỗ màng trinh chứng tỏ đã có quan hệ tình dục.” Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình; Bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Bị cáo không khiếu nại gì về kết luận giám định pháp y sinh dục số 003/2020/SD- TTPY ngày 10/02/2020 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Ninh Bình kết luận đối với cháu Vũ Thị Kim N và số 004/2020/SD-TTPY ngày 10/02/2020 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Ninh Bình kết luận đối với Dương Quý T.
Tại bản cáo trạng số 24/CT-VKSNQ-HS ngày 31/03/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố bị cáo Dương Quý T về tội: “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo khoản 1 điều 145 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Dương Quý T phạm tội: “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”. Áp dụng khoản 1 Điều 145, Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 15 tháng tù. Thời hạn tính từ ngày bắt thi hành án.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự;
Khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát:
35N1-399.40; 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 6S màu bạc, 01 áo khoác màu đen, xám, trắng gắn mác Nowyork Time; 01 áo len dài tay loại có khóa màu trắng, đỏ, đen; 01 áo thun dài tay màu đen cổ tròn, gắn mác Boy Since 1978; 01 quần vải màu đen; 01 khăn len màu đỏ, loại khăn vòng tròn; 01 quần lót nam màu đen, cạp chun, dạng đùi; 01 đôi giày nhãn hiệu Converse màu trắng thu của Dương Quý T.
- Trả lại 01 điện thoại nhãn hiệu SamSung J4 màu vàng cho chị Đinh Thị M.
- Tịch thu tiêu hủy 01 quần dài bằng vải màu đen; 01 quần lót nữ màu vàng; 01 áo bò màu ghi loại dài tay; 01 áo phông dài tay màu hồng; 01 áo lót ngực màu hồng; 01 áo khoác màu hồng thu của cháu Vũ Thị Kim N.
Ý kiến của chị Đinh Thị M đại diện của bị hại tại phiên tòa: Không yêu cầu thêm về trách nhiệm dân sự với bị cáo. Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại tại phiên tòa: Đồng ý với cáo trạng và bản luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện N. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, đảm bảo đúng người đúng tội và sự nghiêm minh của pháp luật.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N.
Lời nói sau cùng của bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, bị cáo xin lỗi bị hại và gia đình của bị hại và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu có liên quan khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Tối ngày 04/02/2020 tại đường cánh đồng ở thôn T, xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Dương Quý T là người thành niên đã có hành vi quan hệ tình dục với cháu Vũ Thị Kim N sinh ngày 12/02/2006 hiện ở tại thôn T, xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình là trẻ em ở độ tuổi 13 tuổi 11 tháng 23 ngày. Như vậy, hành vi nêu trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” quy định tại khoản 1 Điều 145 Bộ luật hình sự.
“Điều 145. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi 1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
……………………………..
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm” Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo với tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ đúng pháp luật.
Tuy nhiên, trước khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cân nhắc đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, xét thấy:
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của bị hại, không chỉ gây tổn thương về thể chất mà còn có thể ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản, đến khả năng học tập, hòa nhập trong cuộc sống, Đồng thời hành vi xâm hại tình dục trẻ em còn gây nhiều sự bất bình trong quần chúng nhân dân, gây dư luận xấu trong xã hội. Bị cáo lợi dụng tâm sinh lý và nhân cách của bị hại chưa phát triển đầy đủ, bị hại chưa có nhận thức đúng đắn về tình dục. Bị cáo là người trưởng thành, có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ, bị cáo phải nhận thức rõ hành vi giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là gây hậu quả rất nghiêm trọng nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy cần phải xét xử bị cáo nghiêm minh trước pháp luật. Tuy nhiên xét trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi mình đã thực hiện. Bị cáo đã tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường cho bị hại. Đại diện hợp pháp của bị hại có ý kiến xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo. Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có. Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt. Từ những nhận định trên xét thấy cần áp dụng loại hình phạt tù có thời hạn cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo.
[3]. Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra bị cáo Dương Quý T đã tự nguyện bồi thường cho cháu Vũ Thị Kim N số tiền 15.000.000 đồng. Sau khi nhận số tiền trên chị Đinh Thị M đại diện hợp pháp của cháu Ngân và cháu Vũ Thị Kim N nhất trí không yêu cầu bị cáo Trọng phải bồi thường thêm khoản nào khác. Vì vậy cần ghi nhận sự tự nguyện của chị Miền và cháu Ngân.
[4]. Về xử lý vật chứng:
Đối với 01 USB nhãn hiệu KingTon dung lượng 16GB lưu trữ nội dung ghi âm lời khai của Dương Quý T về việc giao cấu với cháu Ngân trong quá trình hỏi cung bị can được chuyển theo hồ sơ vụ án.
Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát: 35N1- 399.40; 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 6S màu bạc thu của Dương Quý T. Đây là tài sản hợp pháp của bị cáo, xét không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo là phù hợp.
Đối với 01 áo khoác màu đen, xám, trắng gắn mác Nowyork Time; 01 áo len dài tay loại có khóa màu trắng, đỏ, đen; 01 áo thun dài tay màu đen cổ tròn, gắn mác Boy Since 1978; 01 quần vải màu đen; 01 khăn len màu đỏ, loại khăn vòng tròn; 01 quần lót nam màu đen, cạp chun, dạng đùi; 01 đôi giày nhãn hiệu Converse màu trắng thu của Dương Quý T đã xác định là tài sản hợp pháp của Trọng và bị cáo có đề nghị xin lại vì vậy cần trả lại cho bị cáo là phù hợp.
Đối với 01 điện thoại nhãn hiệu SamSung J4 màu vàng thu của của chị Đinh Thị M xét thấy là tài sản hợp pháp của chị Miền cần trả lại cho chị Miền là phù hợp.
Đối với 01 quần dài bằng vải màu đen; 01 quần lót nữ màu vàng; 01 áo bò màu ghi loại dài tay; 01 áo phông dài tay màu hồng; 01 áo lót ngực màu hồng; 01 áo khoác màu hồng thu của cháu Vũ Thị Kim N là tài sản hợp pháp của cháu N nhưng tại phiên tòa chị M là đại diện hợp pháp của cháu N xác định không còn giá trị sử dụng và không đề nghị nhận lại nên cần tịch thu tiêu hủy.
[5]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Dương Quý T phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.
Áp dụng: Khoản 1 Điều 145; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Dương Quý T 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
2. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự thỏa thuận bồi thường của bị cáo với bị hại số tiền 15.000.000 đồng.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát:
35N1-399.40; 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 6S màu bạc, 01 áo khoác màu đen, xám, trắng gắn mác Nowyork Time; 01 áo len dài tay loại có khóa màu trắng, đỏ, đen; 01 áo thun dài tay màu đen cổ tròn, gắn mác Boy Since 1978; 01 quần vải màu đen; 01 khăn len màu đỏ, loại khăn vòng tròn; 01 quần lót nam màu đen, cạp chun, dạng đùi; 01 đôi giày nhãn hiệu Converse màu trắng.
- Trả lại 01 điện thoại nhãn hiệu SamSung J4 màu vàng cho chị Đinh Thị M.
- Tịch thu tiêu hủy 01 quần dài bằng vải màu đen; 01 quần lót nữ màu vàng; 01 áo bò màu ghi loại dài tay; 01 áo phông dài tay màu hồng; 01 áo lót ngực màu hồng; 01 áo khoác màu hồng thu của cháu Vũ Thị Kim N.
(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N).
4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Buộc bị cáo Dương Quý T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm
5. Án xử công khai sơ thẩm bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Bản án 27/2020/HS-ST ngày 21/05/2020 về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
Số hiệu: | 27/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về