Bản án 27/2020/HS-ST ngày 13/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, TP ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 27/2020/HS-ST NGÀY 13/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai, vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 26/2020/TLST-HS ngày 09 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2020/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 4 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. HỒ VĂN T. (Tên gọi khác: Tý)- Sinh ngày: 18 tháng 9 năm 1997, tại TP. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.

Nơi đăng ký HKTT: Không có nơi đăng ký hộ khẩu nhất định; Chỗ ở: Tổ 04, phường Nại Hiên Đ, quận Sơn T1, TP. Đà Nẵng.

Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam;

Con ông: Không xác định và bà Hồ Thị M;

Bản thân chưa có vợ con;

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân Thân: Năm 2015, bị Tòa án nhân dân TP. Đà Nẵng xử phạt 06 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” (bản án số: 51/2015/HSST ngày 03/8/2015 của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà và bản án số: 207/2015/HSPT ngày 24/9/2015 của Tòa án nhân dân TP. Đà Nẵng). Bị cáo bị bắt ngày 17/01/2020- Có mặt tại phiên tòa.

2. NGUYỄN VĂN L. Sinh ngày: 08 tháng 01 năm 2000, tại Quảng Nam.

Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn Châu L1, xã Điện T2, thị xã Điện B, tỉnh Quảng Nam.

Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Nguyễn Tùng S và bà Trà Thị L2;

Bản thân chưa có vợ con;

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt ngày 17/01/2020- Có mặt tại phiên tòa.

- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Lê Văn S1. Sinh năm: 1968

Trú tại: Tổ 39, phường Nại Hiên Đ, quận Sơn T1, TP. Đà Nẵng- Vắng mặt.

2. Ông Nguyễn Tùng S. Sinh năm: 1972

Trú tại: Thôn Châu L1, xã Điện T2, thị xã Điện B, tỉnh Quảng Nam- Có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

* Người chứng kiến: Ông L Văn P. Sinh năm: 1990

Trú tại: 04/15 đường Lưu Quang T3, phường Mỹ A, quận Ngũ Hành S2, TP. Đà Nẵng- Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 23 giờ ngày 30/12/2019, tại ngã 3 đường Chế Lan Viên- Hồ Xuân Hương thuộc phường Mỹ An, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng, Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng kiểm tra, lập biên bản về việc Hồ Văn T và Nguyễn Văn L có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng.

Vật chứng và tài sản tạm giữ của:

* Hồ Văn T:

- 01 gói ni lông bên trong chứa tinh thể rắn, màu trắng, được niêm phong, ký hiệu T1;

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu bạc, không gắn sim.

* Nguyễn Văn L:

- 01 xe mô tô hiệu Yamaha, loại Surius, màu đỏ đen, biển kiểm soát 92D1- 414.11;

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu bạc, gắn sim số 0898642055.

* Theo Kết luận giám định 24/GĐ-MT ngày 07/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP. Đà Nẵng, kết luận: Tinh thể rắn màu trắng trong mẫu T1 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng mẫu T1: 0,164 gam.

Quá trình điều tra, Hồ Văn T và Nguyễn Văn L khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 30/12/2019, Hồ Văn T rủ Nguyễn Văn L góp mỗi người 100.000 đồng để mua ma túy “đá” về sử dụng, L đồng ý. Sau đó, T mượn của ông Lê Văn S 200.000 đồng rồi thông qua bạn tên Mỹ (không xác định được nhân thân, lai lịch) giới thiệu, T điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha, loại Surius, màu đỏ đen, biển kiểm soát 92D1-414.11 đến khu vực trường THPT Tôn Thất Tùng thuộc phường An Hải Bắc, quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng mua của người đàn ông (không xác định được nhân thân, lai lịch) 200.000 đồng ma túy “đá” rồi về báo cho L biết.

Khoảng 22 giờ cùng ngày, L điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 92D1- 414.11 chở T cầm gói ma túy trên tay đi tìm nơi sử dụng. Khi đến ngã 3 đường Chế Lan Viên- Hồ Xuân Hương thuộc phường Mỹ An, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng, L dừng xe lại để T vào quầy tạp hóa mua bật lửa để sử dụng ma túy thì bị Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng kiểm tra, lập biên bản.

Với nội dung trên tại bản Cáo trạng số 31/CT-VKSNHS, ngày 07/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng đã truy tố các bị cáo Hồ Văn T và Nguyễn Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm đã truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Hồ Văn T và Nguyễn Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Hồ Văn T mức án từ 15 đến 18 tháng tù.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L mức án từ 12 đến 15 tháng tù.

Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 bì thư trắng niêm phong là mẫu hoàn trả kèm theo Kết luận giám định số 24/GĐ-MT ngày 07/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP. Đà Nẵng, là ma túy.

Đề nghị trả lại cho Hồ Văn T 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu bạc, không gắn sim; cho Nguyễn Văn L 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu bạc, gắn sim số 0898642055, do không liên quan đến vụ án.

Đối xe mô tô hiệu Yamaha, loại Surius, màu đỏ đen, biển kiểm soát 92D1- 414.11 của ông Nguyễn Tùng S- là cha ruột của Nguyễn Văn L. Ông S cho L mượn xe để sử dụng, không biết L dùng xe làm phương tiện đi sử dụng trái phép chất ma túy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng đã trả lại cho ông Nguyễn Tùng S là đúng pháp luật.

Những người tham gia phiên tòa không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo và người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Khoảng 23 giờ ngày 30/12/2019, tại ngã 3 đường Chế Lan Viên- Hồ Xuân Hương thuộc phường Mỹ An, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng, trong lúc Hồ Văn T và Nguyễn Văn L có hành vi tàng trữ trái phép 0,164 gam ma túy loại Methamphetamine để sử dụng thì bị Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng phát hiện, thu giữ.

[3] Hành vi trên của các bị Hồ Văn T và Nguyễn Văn L đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, như cáo trạng số 31/CT-VKSNHS, ngày 07/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét tính chất vụ án và hành vi phạm tội của các bị cáo Hồ Văn T và Nguyễn Văn L thì thấy: Các bị cáo tham gia có tính chất đồng phạm nhưng không có sự tổ chức, cấu kết, không có sự bàn bạc cụ thể mà chỉ mang tính chất đồng phạm giản đơn. Mặc dù các bị cáo biết rõ tác hại của ma túy và pháp luật nghiêm cấm nhưng các bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm tới chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân làm lây lan căn bệnh thế kỷ. Hành vi trên của các bị cáo đã gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an của xã hội, gây bất bình trong nhân dân trên địa bàn TP. Đà Nẵng nói chung và trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn nói riêng. Vì vậy, cần phải xử phạt nghiêm khắc để giáo dục các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Xét hành vi phạm tội, vai trò và nhân thân của từng bị cáo thì thấy:

Đối với Hồ Văn T là một thanh niên có tuổi đời còn trẻ nhưng không lo lao động, làm ăn chính đáng mà cố tình vi phạm pháp luật, lẽ ra bị cáo phải ý thức được pháp luật cũng như tác hại và nguy hiểm của chất ma túy mà Nhà nước đã ban hành các văn bản nhằm tuyên truyền phòng, chống ma túy cả về chiều rộng lẫn chiều sâu nhằm nâng cao nhận thức của người dân về tác hại của ma túy, nhưng bị cáo đã không thấy được tác hại của ma túy để tránh xa. Bản thân bị cáo có nhân thân xấu; năm 2015, bị Tòa án nhân dân TP. Đà Nẵng xử phúc thẩm xử phạt 06 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Mặc dù đã có nhân thân xấu nhưng bị cáo vẫn thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, hành vi phạm tội của bị cáo T là rất nguy hiểm, xem thường pháp luật, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam là tình tiết định khung được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử xét cần xử phạt bị cáo nghiêm minh, xử cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời răn đe các đối tượng khác có hành vi tương tự.

Song xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt khi lượng hình.

Đối với Nguyễn Văn L do nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân nên đã cùng Hồ Văn T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam là tình tiết định khung được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét cần xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với hành vi bị cáo đã gây ra, xử cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo.

Tuy nhiên trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo L đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo có công với nước nên áp dụng điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một mức hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

Ngoài ra, Hồ Văn T và Nguyễn Văn L còn có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng đã xử lý hành chính là đúng pháp luật.

Đối với tên Mỹ và người bán ma túy cho Hồ Văn T, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng sẽ tiếp tục điều tra xử lý sau.

Đối ông Lê Văn S có cho Hồ Văn T mượn 200.000 đồng nhưng không biết việc T mượn tiền để mua ma túy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng không xử lý là có căn cứ.

[5] Xét về vật chứng: Đối với 01 bì thư trắng niêm phong là mẫu hoàn trả kèm theo Kết luận giám định số 24/GĐ-MT ngày 07/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP. Đà Nẵng. Xét cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu bạc, không gắn sim của Hồ Văn T và 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu bạc, gắn sim số 0898642055 của Nguyễn Văn L, do không liên quan đến vụ án. Xét cần trả lại cho Hồ Văn T và Nguyễn Văn L.

Đối xe mô tô hiệu Yamaha, loại Surius, màu đỏ đen, biển kiểm soát 92D1- 414.11 của ông Nguyễn Tùng S- là cha ruột của Nguyễn Văn L. Ông S cho L mượn xe để sử dụng, không biết L dùng xe làm phương tiện đi sử dụng trái phép chất ma túy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng đã trả lại cho ông Nguyễn Tùng S nên không đề cập đến.

[6] Hội đồng xét xử xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn tại phiên tòa về căn cứ các điều luật áp dụng cũng như đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo là có cơ sở nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi lượng hình.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự bị cáo Hồ Văn T;

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn L.

Tuyên bố: Các bị cáo Hồ Văn T và Nguyễn Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Bị cáo Hồ Văn T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt, ngày 17/01/2020.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn L 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt, ngày 17/01/2020.

Xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự, điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư trắng niêm phong là mẫu giám định hoàn trả kèm theo kết luận giám định số: 24/GĐ-MT ngày 07/01/2020 của phòng KTHS Công an TP. Đà Nẵng.

Tuyên trả cho Hồ Văn T 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu bạc, không gắn thẻ sim niêm phong ký hiệu T3.

Tuyên trả cho Nguyễn Văn L 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu bạc gắn sim số: 0898642055 niêm phong ký hiệu T2.

Vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự Quận Ngũ Hành Sơn, TP.

Đà Nẵng đang tạm giữ theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 16/4/2020.

Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/NQ- UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 13/5/2020.

Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa T3 thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

309
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2020/HS-ST ngày 13/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:27/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về