Bản án 27/2020/HSPT ngày 24/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 27/2020/HSPT NGÀY 24/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 02 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 40/2019TLPT-HS ngày 18/12/2019 đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 81/2019/HSST ngày 12/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 147/2020/QĐXXPT-HS ngày 05/02/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.

- Bị cáo Trần Văn H sinh ngày 16/7/1996 tại tỉnh Quảng Nam; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: tỉnh Quảng Nam; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lái xe; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn T (c) và bà Nguyễn Thị H (s); có vợ là Huỳnh Thị T Trinh và có 02 con (lớn nhất sinh năm 2016, nhỏ nhất sinh năm 2018); Tiền án, tiền sự: Không. Về nhân thân: Ngày 27/5/2014 bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xử phạt 01 năm tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” đã chấp hành xong. Bị bắt tạm giam ngày 26/02/2019, hiện đang tạm giam tại Trại Tạm giam H thuộc Công an thành phố Đà Nẵng, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo theo yêu cầu của Tòa án: Luật sư Nguyễn Tấn B - Văn phòng luật sư N, Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Trong khoảng thời gian từ 07/4/2018 đến ngày 10/01/2019, lợi dụng sơ hở lúc đêm khuya, những nơi đường vắng và khu vực thiếu ánh đèn sáng, Trần Văn H đã 03 (ba) lần đột nhập vào nhà dân trên địa bàn quận L và huyện H, thành phố Đà Nẵng lén lút trộm cắp tài sản, cụ thể:

+ Lần thứ nhất: Vào đêm 07/4/2018, rạng sáng ngày 08/4/2018, H bắt taxi đi đến khu vực ngã tư đường N và T tìm nhà nào sơ hở để trộm tài sản. H xuống taxi đi bộ vào khu dân cư, H phát hiện và đột nhập vào nhà ông Đặng Văn S, thấy cửa chính chỉ chốt không khóa, H mở cửa đi vào và đi vào phòng ngủ của ông S lấy chìa khóa nhà và tiếp tục vào phòng ngủ vợ chồng anh Đặng Lê Hoàng G (con trai ông S) lấy chìa khóa xe mô tô SH cùng ví da của anh G. Sau đó H đi xuống nhà mở cửa gara (nơi để xe mô tô nhà ông S) dắt xe mô tô SH mang biển số 43H1- 19166 trong gara ra ngoài, tiếp tục lấy chìa khóa mở cổng, ra đường rồi lái xe tẩu thoát. H lục ví da lấy 2.800.000đ cùng giấy tờ xe và CMND của anh G. Sau khi điều khiển xe về đến nhà, H đã gỡ ảnh của anh G trên CMND, và lấy ảnh của H thay vào CMND. H lên mạng rao bán chiếc xe mô tô SH mang biển số 43H1- 19166. Anh Nguyễn Xuân H1 (trú tổ 40, Thanh Khê Tây, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng) biết được và tìm đến H mua lại xe với giá 51.000.000đ. Do nghi ngờ về nguồn gốc chiếc xe SH, anh H1 thông qua mạng xã hội đã tìm đến H để đòi lại tiền, H sợ bị phát hiện nên trả lại tiền cho anh H1. Còn xe mô tô SH mang biển số 43H1-19166 cùng giấy tờ anh H1 đem nộp cho cơ quan Công an thành phố Đà Nẵng. Căn cứ bản kết luận định giá tài sản ngày 22/5/2019, hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận L đã xác định giá trị chiếc xe mô tô Honda SH, màu trắng, biển số 43H1-191.66 số máy JF42E0063411, số khung 421IDY063411 là 63.000.000đ (sáu mươi ba triệu đồng).

+ Lần thứ hai: Vào đêm 26/8/2018, rạng sáng ngày 27/8/2018, Trần Văn H bắt xe taxi xuất phát từ nhà ở huyện Đ dự định đi dọc các tuyến đường để tìm nơi có sơ hở để trộm cắp tài sản. Taxi chở H đi qua thị trấn A, huyện L rồi đi tiếp đến khu vực, huyện H. H xuống xe đi bộ khoảng 100m thì phát hiện một căn nhà cấp 4 có cổng bị khóa ở ngoài, trong sân có để 01 chiếc xe ô tô màu đen, hiệu KIA CERATO, loại xe 5 chỗ ngồi, mang biển số 43A-231.44. H trèo rào vào trong sân, đi đến chỗ để xe và thấy xe ô tô không khóa cửa, tại ghế trước của xe ô tô có để chìa khóa xe và khóa cổng; ngoài ra trên xe còn có 01 (một) điện thoại di động hiệu NOKIA màu đen đã cũ. H lấy chìa khóa mở cổng, nổ máy xe và lái xe ra ngoài rồi đi đến khu vực nghĩa địa, thị xã Đ. Tại đây, H để xe lại và đi khỏi đến 22h cùng ngày thì H quay lại lái xe đi đến phường H, quận C và thấy có một xe ô tô biển số 43A-268.16 (xe của anh Trần Ngọc T, sinh năm 1987) đang đổ ở sát lề đường. H xuống xe đi đến dùng cà lê 12 tháo trộm hai biển số của xe ô tô này và lái xe trộm cắp được về lại khu vực nghĩa địa G. H tháo biển số cũ ra và lắp hai biển số vừa trộm cắp được vào xe ô tô trộm cắp của anh Tâm, rồi để xe lai và đi về nhà, rạng sáng ngày 29/8/2018, H quay lại nghĩa địa G điều khiển xe ô tô đi, thì bị lực lượng Công an phát hiện, H mở cửa xe bỏ chạy trốn và để xe ô tô lại hiện trường. Công an điều tra đã tiến hành truy xét đối tượng và tổ chức khám nghiệm hiện trường, thu nhập các dấu vết do đối tượng gây án để lại trên xe ô tô liên quan và đã phát hiện bên trong xe ô tô có 03 (ba) dấu vết vân tay của Trần Văn H. Căn cứ bản kết luận định giá số 31/HĐĐG ngày 14/9/2018 của Hội đồng định giá thường xuyên của UBND huyện H xác định giá trị tài sản bị mất trộm xe ô tô hiệu KIA-CERATO là 480.000.000đ (bốn trăm tám mươi triệu đồng).

+ Lần thứ ba: Vào rạng sáng ngày 10/01/2019, H điều khiển xe mô tô Yamaha Exciter biển số 92D1-599.13 đi tìm nơi có sơ hở để trộm cắp tài sản. H lái xe bắt đầu từ nhà đi hướng huyện H rồi đi đến huyện H. H điều khiển xe đi vào một con hẻm và để xe máy vào một bụi cây bên đường rồi tiếp tục đi bộ vào tìm xe có nhà nào sơ hở để đột nhập vào trộm cắp tài sản. H phát hiện nhà hai tầng của chị Nguyễn Thị Thanh L (sinh năm 1977) có cửa thông gió đang mở, H trèo rào vào sân rồi trèo qua cửa thông gió ở tầng 2 vào trong nhà. Sau khi trèo vào nhà, H thấy mọi người đã ngủ, H đi vào phòng ngủ ở lầu 1 thấy trên nệm trong phòng có 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 Prime màu hồng, trên bàn trang điểm có 01 túi da màu đen của nữ, H liền nhanh chóng lấy trộm, sau đó H mở cửa bên hông trái nhà chị L ra ngoài. Khi ra đến sân phía trước nhà phát hiện thấy có camera, H liền trèo lên bẻ chiếc camera hiệu Dahua IP Wifi C12 mang theo. Sau đó H trèo ra ngoài, H lục túi thấy có khoảng hơn 1.700.000đ (một triệu bảy trăm ngàn đồng), một thẻ ATM, một CMND, H lấy chiếc điện thoại Samsung bỏ vào túi sau đó đem bán cho một người không rõ lai lịch, giá 1.500.000đ, còn chiếc camera trộm được H đã làm rơi mất trên đường đi về. Căn cứ bản Kết luận định giá số 21/HĐĐG ngày 04/4/2019 của Hội đồng định giá thường xuyên UBND huyện H xác định giá trị tài sản bị mất trộm gồm điện thoại di động hiệu Samsung J7 và Camera là 3.285.000đ (ba triệu hai trăm tám mươi lăm ngàn đồng).

Tổng giá trị tài sản 03 lần bị cáo H chiếm đoạt là 550.785.000 đồng. Tang vật thu giữ gồm: 01 (một) xe ô tô hiệu KIA CERATO biển số 43A-23144; 02 (hai) biển số xe ô tô 43A-268.16; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu SH mang biển số 43H1-19166; 01 (một) Giấy đăng ký xe số 021535 và 01 (một) giấy bảo hiểm xe số 351705 đều của xe mô tô SH mang biển số 43H1-19166; 01 (một) xe mô tô hiệu YAMAHA EXCITER biển số 92D1-59913; 01 (một) giấy chứng nhận đăng kí xe mô tô biển số 92D1-599.13; 01 (một) chứng minh nhân dân, 01 (một) giấy phép lái xe hạng Al, 01 (một) giấy phép lái xe hạng B2 đều mang tên Trần Văn H; 560.000đ (Năm trăm sáu mươi ngàn đồng) tiền Việt Nam; 01 (một) thẻ nhớ Micro SD&GB, 02 (hai) đĩa CD; 01 (một) áo dài tay, cổ trái tim, màu rêu xanh; 01 (một) mũ lưỡi trai bằng vải, màu nâu phía trước có dòng chữ “MICKIKI LONOON”; 01 (một) bộ đồ nghề 02 (hai) tục vít, 03 (ba) thanh lục giác bằng kim loại và 01 (một) 0 khóa bằng kim loại hiệu Việt Tiệp.

- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 81/2019/HSST ngày 12/11/2019, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng quyết định:

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”

2. Căn cứ vào Điểm a Khoản 4 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015(sửa đổi, bổ sung năm 2017)

Xử phạt: Trần Văn H 12 (Mười hai) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt 26/02/2019.

Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí.

- Ngày 24/11/2019, bị cáo Trần Văn H có đơn kháng cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức hình phạt 12 năm tù là quá nặng.

Tạ i phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Trần Văn H giữ nguyên kháng cáo, - Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

+ Về tố tụng: Trong quá trình tố tụng tại Tòa án cấp phúc thẩm, các Thẩm phán, thành viên Hội đồng xét xử phúc thẩm đã thực hiện đúng các thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; Bị cáo chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa và thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ khi tham gia tố tụng.

+ Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội Trộm cắp tài sản theo điểm a Khoản 4 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ bị cáo được hưởng nên xử phạt bị cáo mức hình phạt 12 năm tù là không nặng, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét:

[1]. Về tội danh, khung hình phạt: Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Trần Văn H thừa nhận hành vi phạm tội như xác định tại bản án sơ thẩm, do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng có đủ cơ sở kết luận trong khoảng thời gian từ ngày 07/4/2018 đến ngày 10/01/2019, lợi dụng sơ hở lúc đêm khuya, những nơi đường vắng, khu vực thiếu ánh sáng và người bị hại thiếu cảnh giác trong việc quản lý tài sản nên H đã 03 (ba) lần lén lút đột nhập vào nhà dân lấy đi số tài sản có tổng giá trị 550.785.000 đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo Trần Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng khung hình phạt.

[2]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội trên 02 lần, do đó, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự là đúng pháp luật.

[3]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo chưa thành khẩn khai báo, chưa ăn năn hối cải nên Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Sau khi vụ án bị phát hiện bị cáo đã bồi thường lại số tiền cho người mua xe; tài sản bị chiếm đoạt tuy lớn nhưng đã được thu hồi ngay và đã trả lại cho người bị hại nên chưa gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho người bị hại; hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn vì 02 con còn nhỏ và bị bệnh; do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng quy định tại điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự là có cơ sở, đúng pháp luật.

[4]. Về quyết định hình phạt:

Tại phiên tòa sơ thẩm, có lúc bị cáo quanh co không thừa nhận đã 3 lần đột nhập nhà dân trộm cắp tài sản như Cáo trạng quy kết mà cho rằng bị cơ quan Điều tra mớm cung, ép cung, do đó Tòa án cấp sơ thẩm khi quyết định hình phạt không cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự - thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo H thành khẩn thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm nhận định, ăn năn hối cải mong muốn được sớm trở về nuôi 02 con nhỏ nên Hội đồng xét xử xét áp dụng thêm điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt với bị cáo.

Mặt khác, cấp phúc thẩm cũng xét thấy tại Công văn số 358/CV-CSĐT ngày 26/02/2019 của Cơ quan Điều tra Công an huyện H (bút lục 196) thể hiện ngày 26/02/2019 khi H bị Công an huyện H triệu tập làm việc về ghi vấn H trộm cắp chiếc xe ôtô KIA CERATO biển kiểm soát 43A-231.44 vào ngày 27/8/2018 thì H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình “ngoài ra, H khai nhận vào ngày 09/01/2019 H còn thực hiện 01 vụ trộm cắp tài sản tại Cẩm Toại Trung, H, Đà Nẵng” (đây là vụ trộm thứ 3 trong bản án) do đó, cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội tự thú” quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 khi quyết định hình phạt với bị cáo.

Khoản 4 Điều 173 Bộ luật hình sự về tội “Trộm cắp tài sản” có khung hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. Bị cáo chiếm đoạt tổng số tài sản trị giá 550.785.000 đồng là trên mức giá trị khởi điểm tài sản định khung (500.000.000 đồng) của điểm a khoản 4 Điều 173 Bộ luật hình sự số tiền 50.785.000 đồng. Bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự nhưng có đến 03 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, r, s khoản 1 và các tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự (như hoàn cảnh gia đình khó khăn có 02 con còn nhỏ, bị bệnh và tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi ngay trả lại người bị hại nên chưa gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho người bị hại), do đó, cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo. Kháng cáo của bị cáo được Hội đồng xét xử chấp nhận giảm hình phạt cho bị cáo nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ thời điểm hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Từ nhận định tại các mục trên,

QUYẾT ĐỊNH

I/ Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 81/2019/HSST ngày 12/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng như sau:

Áp dụng điểm a Khoản 4 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; các điểm b, r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt Trần Văn H 11 (mười một) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/02/2019.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

II/ Án phí phúc thẩm: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

301
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2020/HSPT ngày 24/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:27/2020/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về