Bản án 27/2020/HNGĐ-ST ngày 30/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 27/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/07/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG 

Ngày 30/7/2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 58/2020/TLST-HN&GĐ ngày 18 tháng 2 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26 ngày 15/6/2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 18 ngày 07/7/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trịnh Thị X, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Thôn 9, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

Nghề nghiệp: Công nhân.

Bị đơn: Anh Trần Văn D, sinh năm 1989.

Địa chỉ: Thôn X, xã Q, huyện N, tỉnh Ninh Bình.

Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Chị X vắng mặt, có đơn đề nghị xử vắng mặt, anh D vắng mặt đã triệu tập hợp lệ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 17/02/2020, bản tự khai ngày 26/02/2020 và đơn xin xử vắng mặt ngày 22 tháng 6 năm 2020 chị X trình bày:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh D kết hôn với nhau không đăng ký kết hôn tại UBND xã Q, huyện N, mà đăng ký tại UBND xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn vợ chồng anh D, chị X về sống chung với nhau tại nhà bố, mẹ đẻ anh D ở thôn X, xã Q, huyện N thời gian ngắn sau đó vợ chồng ra ở riêng nhưng vẫn ở nhờ nhà của bố mẹ anh D, thời gian vợ chồng sống chung với nhau khoảng 03 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau về mọi lĩnh vực trong cuộc sống, nên thường xuyên va chạm cãi nhau, mâu thuẫn trầm trọng kéo dài, đến năm 2017 vợ chồng lại tiếp tục va chạm nên chị X đã bế con về nhà mẹ đẻ tại xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa ở, cũng từ đó vợ chồng ly thân cho đến nay không quan tâm gì đến nhau nữa.Chị X yêu cầu Tòa giải quyết cho chị ly hôn anh D.

2. Về con chung: Anh D, chị X có 02 con chung là Trần Minh N, sinh ngày 17/9/2012, hiện nay đang ở với anh D và Trần Bình A, sinh ngày 02/9/2014, hiện nay đang ở với chị X. Chị X xin nuôi cả hai con chung và không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con cùng chị, vì chị có thu nhập ổn định, bình quân một tháng là 15.000.000 đồng, còn anh D là lao động tự do nên thu nhập không ổn định thu nhập bình quân mỗi ngày khoảng 200.000 đồng.

3. Về tài sản chung, về công nợ chung, về ruộng đất canh tác: Chị X xác định chị và anh D không có không yêu cầu Tòa giải quyết.

Tại phiên tòa: Đại diện VKS phát biểu quan điểm về việc tuân theo Pháp luật của Thẩm phán, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về thẩm quyền thụ lý: Tòa án nhân dân huyện N thụ lý giải quyết vụ án giai đoạn sơ thẩm là đúng thẩm quyền quy định tại Điều 35 và điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án xác định quan hệ tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” là đúng quy định khoản 1 điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Xác định tư cách pháp lý của nguyên đơn, bị đơn đúng và đầy đủ theo quy định tại các điều 68, 69 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Việc chuyển các văn bản tố tụng của Tòa án cho đương sự và Viện kiểm sát đúng theo quy định của pháp luật. Việc giao nhận tài liệu chứng cứ thực hiện đã lập biên bản và ghi đầy đủ các chứng cứ do đương sự giao nộp, việc lập biên bản đúng theo quy định của pháp luật.

- Thời hạn chuẩn bị xét xử: thời hạn mở phiên Tòa vào ngày đúng quy định tại điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về việc thu thập chứng cứ của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án: Tòa đã tiến hành đúng quy định.

- Việc chấp hành pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện quyền khởi kiện gửi đơn khởi kiện và nộp án phí đúng quy định tại các điều theo điều 186, 190, 195 TTDS và đã thực hiện đầy đủ các quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự, tại phiên tòa chị X có đơn đề nghị xử vắng mặt.

Bị đơn đã không chấp hành quyền và nghĩa vụ theo quy định tại điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt lần 2 tại phiên tòa không có lý do, tòa án vẫn tiến hành xét xử là đúng quy định tại các Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về đường lối đề nghị như sau, căn cứ: Căn cứ các Điều 5, 147, 227, 228, 266, 271 và khoản 1 điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 56, 58, 81, 82, 83, Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 5, Điều 27 Nghị quyết 326/UBTCQH 14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về án phí. Đề nghị Hội đồng xét xử.

Chấp nhận yêu khởi kiện của Trịnh Thị X.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử ly hôn giữa chị Trịnh Thị X và Trần Văn D.

2. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung:

Giao cho chị Trịnh Thị X tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc cháu Trần Bình A, sinh ngày 02/9/2014 cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Giao cho anh Trần Văn D tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cháu Trần Minh N, sinh ngày 17/9/2012 cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Anh D và chị X không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

3. Về án phí: Chị X phải nộp theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung” giữa chị Trịnh Thị X và anh Trần Văn D. Tranh chấp trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình.

1. Về thủ tục tố tụng: Đối với các đương sự, từ khi thụ lý đơn khởi kiện của chị X, Tòa án nhân dân huyện N đã gửi thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng cho các đương sự. Chị X đã nhận và chấp hành đầy đủ nghĩa vụ của mình, anh D chấp hành không đầy đủ nghĩa vụ theo qquy định của pháp luật. Đến ngày 15/6/2020 Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.

2. Về quan hệ hôn nhân: Chị X và anh D kết hôn với nhau đăng ký tại UBND xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa trên cơ sở tự nguyện là hôn nhân hợp pháp. Về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng do anh D không có mặt để làm việc với Tòa án nên không thể xác định cụ thể là như thế nào? nhưng theo chị X do vợ chồng không hợp nhau về mọi lĩnh vực trong cuộc sống, nên thường xuyên va chạm, cãi nhau, mâu thuẫn trầm trọng kéo dài. Đến năm 2017 chị X và anh D đã sống ly thân không quan tâm gì đến nhau nữa. Đây là bằng chứng thể hiện tình cảm vợ chồng của chị X và anh D không còn khả năng đoàn tụ. Đã có đủ cơ sở pháp lý để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị X. Xử ly hôn giữa chị X và anh D Phương là phù hợp với thực tế và quy định của Pháp luật để hai người sớm ổn định cuộc sống (áp dụng điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014).

3. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Xét thực tế hoàn cảnh sống cũng như điều kiện chăm sóc con của chị X và anh D cần giao cho mỗi người nuôi một con để thuận tiện cho việc chăm sóc và nuôi dạy các cháu. Vi vậy cần giao con chung là Trần Minh N, sinh ngày 17/9/2012 hiện ở với anh D cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc đến khi đủ 18 tuổi.

Giao cho chị X trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là cháu Trần Bình A, sinh ngày 02/9/2014 hiện đang ở vói chị X đến khi cháu đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con không đặt ra việc giải quyết

4. Về tài sản chung, về công nợ chung: Từ yêu cầu của chị X không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

5. Về án phí: Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị X phải nộp theo quy định của pháp luật. Số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí, chị X đã nộp được chuyển sang án phí.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

 Áp dụng: Căn cứ Điều 5, 147, 266, 271; 227; 228 khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/UBTCQH 14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về án phí.

Xử. Chấp nhận yêu khởi kiện của chị Trịnh Thị X.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử ly hôn giữa chị Trịnh Thị X và anh Trần Văn D.

2. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Giao cho chị X trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là cháu Trần Bình A, sinh ngày 02/9/2014 đến khi cháu đủ 18 tuổi.

Giao cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là cháu Trần Minh N, sinh ngày 17/9/2012 đến khi cháu đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị X và anh D không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3.Về án phí: Chị X phải nộp300.000 đồng, số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí tại biên lai thu số: AA/2018/00000437 ngày 18/02/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N, nay chuyển sang án phí.

Án xử công khai sơ thẩm Chị X và anh D được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2020/HNGĐ-ST ngày 30/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:27/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về