Bản án 27/2020/HNGĐ-ST ngày 06/07/2020 về yêu cầu tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ VĨNH CHÂU, TỈNH SÓC TRĂNG 

BẢN ÁN 27/2020/HNGĐ-ST NGÀY 06/07/2020 VỀ YÊU CẦU TUYÊN BỐ KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ VỢ CHỒNG, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Trong ngày 06 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 63/2020/TLST-HNGĐ, ngày 25 tháng 02 năm 2020 về việc“Yêu cầu tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 26 tháng 5 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 25/2020/QĐST- HNGĐ ngày 19 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Trần Huy Minh P, sinh năm 1979;

Địa chỉ: Số nhà 272 tổ 5, ấp B, thị trấn P, huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng.

2. Bị đơn: Chị Triệu Thị C, sinh năm 1984;

Địa chỉ: Nhà không số khóm S, phường V, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.

(Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 18/02/2020 cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn Trần Huy Minh P trình bày:

Vào năm 2010, anh Trần Huy Minh P kết hôn với chị Triệu Thị C nhưng không đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống tại nhà của chị C ở khóm S, phường V, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Trong thời gian sống chung, vợ chồng đã có 01 (một) con chung là cháu Trần Khương D (nữ), sinh ngày 28/4/2013. Đến đầu năm 2019, anh P và chị C xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, vợ chồng không sống chung với nhau nữa, anh P và cháu D về sống với cha mẹ ruột của anh P ở số nhà 272 tổ 5, ấp B, thị trấn P , huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng cho đến nay. Nay, anh P nhận thấy vợ chồng không còn tình cảm, không thể hàn gắn với nhau được nữa.

Nay, anh Trần Huy Minh P yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Trần Huy Minh P yêu cầu Tòa án tuyên bố quan hệ sống chung giữa anh với chị Triệu Thị C không phải là quan hệ vợ chồng.

- Về con chung: Anh P yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung là Trần Khương D (nữ), sinh ngày 28/4/2013 đến đủ 18 tuổi theo nguyện vọng của cháu D , anh P không yêu cầu chị C cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Tài sản chung tự thỏa thuận, nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Chứng cứ do anh P giao nộp là bản sao Giấy chứng minh nhân dân, bản sao Sổ hộ khẩu, bản sao Giấy khai sinh của cháu Trần Khương D , đơn xin xác nhận chưa được cấp số nhà của nhà chị C .

Đối với bị đơn Triệu Thị C : Dù được tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, tại Thông báo thể hiện đầy đủ những tình tiết, sự kiện, tài liệu, yêu cầu khởi kiện của anh Phương nhưng chị C không phản đối, không có văn bản trình bày ý kiến và nguyện vọng của mình. Đồng thời, chị C cũng vắng mặt không có lý do trong các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải ngày 16/3/2020, ngày 20/4/2020. Tòa án đã thông báo kết quả phiên họp trên cho chị C và đưa vụ án ra xét xử. Phiên tòa ngày 19/6/2020, bị đơn C vẫn vắng mặt và không giao nộp tài liệu, chứng cứ gì nên Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa, tiếp tục đưa vụ án ra xét xử theo luật định.

Tài liệu, chứng cứ Tòa án thu thập được là Biên bản xác minh về việc giao nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và Biên bản lấy lời khai cháu Trần Khương D .

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa nêu quan điểm: Qua thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Thư ký phiên tòa cũng như Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, chứng cứ được thu thập đầy đủ đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các đương sự. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, đối với bị đơn chị Triệu Thị C không thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố quan hệ sống chung giữa anh Trần Huy Minh P với chị Triệu Thị C không phải là quan hệ vợ chồng, giao cho anh P được tiếp tục nuôi dưỡng con chung Trần Khương D đến đủ 18 tuổi theo nguyện vọng của cháu D , chị C không phải cấp dưỡng cho con; không xem xét, giải quyết về tài sản và nợ chung do không có yêu cầu; anh P phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Anh Trần Huy Minh P khởi kiện, yêu cầu tuyên bố quan hệ sống chung giữa anh P với chị Triệu Thị C không phải là quan hệ vợ chồng và yêu cầu tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu chị C cấp dưỡng cho con. Yêu cầu của anh P được pháp luật điều chỉnh tại các Điều 53 và Điều 58 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 (sau đây gọi là Luật hôn nhân và gia đình) thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn Triệu Thị C đã được triệu tập hợp lệ hai lần tham gia phiên tòa, đều vắng mặt không có lý do nên phải chịu hậu quả pháp lý về việc vắng mặt của mình. Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật và Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung giải quyết:

Căn cứ bản sao Giấy chứng minh nhân dân, Sổ hộ khẩu, Giấy khai sinh của cháu Trần Khương D ; đối chiếu với quy định tại điểm c khoản 1 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử khẳng định lời trình bày của anh P về việc anh P và chị C chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn và đã có 01 con chung là sự thật. Tại Khoản 1 Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý”. Như vậy, hôn nhân giữa anh Trần Huy Minh P với chị Triệu Thị C không được pháp luật công nhận là vợ chồng.

Tại phiên toà, anh P vẫn giữ nguyên yêu cầu tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng với chị Triệu Thị C . Hội đồng x t xử thống nhất áp dụng Khoản 1 Điều 9, Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, tuyên bố không công nhận quan hệ chung sống giữa anh Trần Huy Minh P với chị Triệu Thị C là quan hệ vợ chồng.

Đối với quyền nuôi con chung: Tại thời điểm xét xử cháu Trần Khương D đã trên 07 tuổi, hiện đang sống cùng với anh P và theo nguyện vọng của cháu D muốn sống chung với cha. Như vậy, anh P đã thực hiện đúng nghĩa vụ và quyền của cha mẹ quy định tại Điều 69 của Luật hôn nhân và gia đình. Về phía chị C , vắng mặt tại phiên tòa và phó mặt cho anh P chăm con, như vậy chị C không có sự quan tâm, nuôi dưỡng, chăm lo ở mức cần thiết đối với cháu D ; chị C đã vi phạm nghĩa vụ và quyền của cha mẹ như quy định của điều luật được viện dẫn ở trên. Do đó, căn cứ vào Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, giao cho anh P được tiếp tục nuôi dưỡng cháu D ; đồng thời ghi nhận ý chí tự nguyện của anh P về việc không yêu cầu chị C cấp dưỡng nuôi con.

Nguyên đơn tiếp tục khẳng định tài sản chung tự thỏa thuận và nợ chung không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[3] Về án phí sơ thẩm:

Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Anh P phải chịu là 300.000 đồng, theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Khóa XIV, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Toàn bộ quan điểm, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu là có căn cứ pháp lý và cơ sở thực tiễn như đã nhận định ở trên, Hội đồng xét xử cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đã nêu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 và khoản 2 Điều 143, khoản 1 Điều 144, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, Điều 15, Điều 53, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Khóa XIV.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Tuyên bố quan hệ sống chung giữa anh Trần Huy Minh P với chị Triệu Thị C không phải là quan hệ vợ chồng.

2. Về quyền nuôi con chung: Giao cho anh Trần Huy Minh P được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Trần Khương D (nữ), sinh ngày 28/4/2013 đến đủ 18 tuổi theo nguyện vọng của cháu D .

Ghi nhận ý kiến tự nguyện của anh P , về việc không yêu cầu chị C cấp dưỡng cho con.

Trong thời gian anh P nuôi dưỡng con chung, không ai được quyền ngăn cản sự thăm nom, chăm sóc, giáo dục của cha mẹ đối với con chung.

Vì quyền lợi về mọi mặt của cháu D , anh P có thể yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi nghĩa vụ và mức cấp dưỡng cho con; chị C có thể yêu cầu giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Các đương sự thực hiện quyền này theo quy định pháp luật.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Nguyên đơn khẳng định tài sản chung tự thỏa thuận và nợ chung không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Anh Trần Huy Minh P phải chịu là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0000736 ngày 25/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Vĩnh Châu, anh Phương đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Anh Trần Huy Minh P có quyền kháng cáo đối với bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án; chị Triệu Thị C có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết hợp lệ, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng x t xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2020/HNGĐ-ST ngày 06/07/2020 về yêu cầu tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:27/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Vĩnh Châu - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về