Bản án 27/2020/DS-ST ngày 30/09/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH ĐĂK NÔNG

BẢN ÁN 27/2020/DS-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đăk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 59/2020/TLST-DS ngày 05/3/2020 về“Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/20120/QĐXXST-DS ngày 18/8/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Vũ Xuân K, sinh năm 1958; Địa chỉ: Thôn D, xã Đ, huyện T, tỉnh Đắk Nông. Có mặt.

Bị đơn: Anh Đinh Văn S, sinh năm 1982; Địa chỉ: Bon B, xã Đ, huyện T, Đắk Nông. Vắng mặt Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Gia Thị A, sinh năm 1980; Địa chỉ: Bon B, xã Đ, huyện T, tỉnh Đắk Nông. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện của và trong qúa trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên toà, nguyên đơn ông Vũ Xuân K trình bày:

Do mối quan hệ quen biết trong quá trình mua bán vật tư nông nghiệp, quá trình kinh doanh do hộ gia đình anh S, chị A gặp khó khăn nên ông K có bán thiếu phân bón, giống cây trồng và vật tư nông nghiệp cho vợ, chồng anh Đinh Văn S và chị Gia Thị A; tính đến ngày 27/01/2019 anh S, chị A còn nợ ông K số tiền 65.200.000 đồng. Hai bên thỏa thuận đến mùa cà phê năm 2019 vợ chồng anh S, chị A phải trả hết số tiền nợ (nếu không trả thì tính lãi suất từ ngày 27/01/2019 theo lãi suất quy định của ngân hàng). Đến thời hạn trả nợ ông K nhiều lần yêu cầu vợ chồng anh S, chị A trả nợ như thỏa thuận nhưng anh S chị A không thực hiện nghĩa vụ trả nợ mà còn bán nhà, đất rẫy để chuyển đi nơi khác làm ăn. Ông K đã yêu cầu UBND xã Đ giải quyết, tại UBND xã Đ vợ chồng anh S chị A thừa nhận số nợ và lãi suất ông K đưa ra nhưng cho rằng chưa lấy được tiền bán rẫy nên chưa có trả ông K. Ông K đã khởi kiện ra Tòa án nhân dân huyện T giải quyết yêu cầu buộc anh S chị A phải trả cho ông K số tiền 65.200.000 đồng và lãi suất theo quy định pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án ông K đã có đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không cho anh S chị A thực hiện việc chuyển nhượng Quyền sử dụng đất nhưng Tòa án đã trả lời bằng văn bản không đồng ý theo đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của ông K. Ông K đưa ra chứng cứ là giấy ghi nợ tiền anh S, chị A đã ký xác nhận.

* Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn anh Đinh Văn S và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Gia Thị A đã được Tòa án tống đạt, niêm yết hợp lệ giấy triệu tập, các văn bản tố tụng nhưng anh S, chị A không hợp tác làm việc để giải quyết vụ án. Tại phiên tòa anh S, chị A vắng mặt không có lý do.

* Tại phiên tòa nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện không thay đổi, bổ sung gì; bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt không có lý do.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T phát biểu quan điểm về trình tự thủ tục tố tụng và hướng xử lý vụ án:

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát về trình tự thủ tục tố tụng: Thẩm phán thiết lập hồ sơ đúng trình tự theo quy định pháp luật, Hội đồng xét xử đúng thành phần; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án là đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vnội dung, vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX:

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Áp dụng khoản 1 Điều 275; Điều 351; Điều 385; Điều 430; Điều 440; khoản 2 Điều 468; khoản 2 Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội.

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Xuân K. Buộc anh Đinh Văn S và chị Gia Thị A phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền gốc là 65.200.000 đồng và tiền lãi suất theo quy định pháp luật cho ông Vũ Xuân K.

- Về án phí: Anh Đinh Văn S và chị Gia Thị A phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Trả lại cho ông Vũ Xuân K số tiền 1.630.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, đối chiếu với các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết và thủ tục tố tụng:

Đồng bị đơn anh Đinh Văn S và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Gia Thị A có địa chỉ cư trú tại bon Bu Ko’k, xã Đ, huyện T, Đắk Nông. Do đó, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đăk Nông theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt, niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành tống đạt các thủ tụng tố tụng cho bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không hợp tác giải quyết, không tham gia tố tụng để giải quyết vụ án vì vậy Tòa án không tiến hành hòa giải giữa các đương sự được, Tòa án đã kết hợp với chính quyền địa phương lập biên bản về việc bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thừa nhận có nợ tiền mua thiếu phân bón, giống cây trồng và vật tư nông nghiệp và chịu lãi suất như nguyên đơn trình bày nhưng không làm việc với Tòa án (không ký vào biên bản ghi lời khai). Như vậy, bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã từ chối quyền tham gia tố tụng dân sự hợp pháp được pháp luật tố tụng dân sự bảo vệ. Tòa án đã tiến hành lập biên bản về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ vắng mặt bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và biên bản không tiến hành hòa giải theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa hôm nay bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

[2] Về quan hệ pháp luật và nội dung tranh chấp:

Đối tượng tranh chấp là số tiền mua thiếu vật tư nông nghiệp tổng cộng là 65.200.0000 đồng. Nguyên đơn trình bày đây là số tiền anh S, chị A mua thiếu vật tư nông nghiệp nhiều lần cộng lại, khi anh S bán đất rẫy ông K đã yêu cầu anh S, chị A trả nợ nhưng anh S chị A không trả nên khởi kiện ra Tòa án yêu cầu giải quyết buộc anh S, chị A trả tiền gốc và lãi phát sinh theo quy định pháp luật. Đây là tài sản hợp pháp của nguyên đơn, thuộc quyền sử dụng của nguyên đơn và đã cho bị đơn nợ lại theo thỏa thuận khi hai bên thực hiện mua bán, do bị đơn vi phạm nghĩa vụ nên nguyên đơn khởi kiện ra Tòa án và Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định pháp luật vì vậy, quan hệ pháp luật trong vụ án này là tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản.

[3] Nhận định của Hội đồng xét xử:

[3.1] Về hợp đồng mua bán tài sản giữa anh S, chị A và ông K là giao dịch dân sự hợp pháp, tuy nhiên trong giấy chốt nợ giữa hai bên không ghi thời hạn trả nợ và lãi suất thỏa thuận (việc thỏa thuận thời hạn trả nợ và lãi suất hai bên chỉ thỏa thuận miệng). Khi thấy anh S, chị A bán tài sản để chuyển đi nơi khác thì ông K mới yêu cầu anh S, chị A trả nợ nhưng anh S, chị A hứa khi nào lấy được tiền bán rẫy mới trả, ông K cho rằng sau khi bán rẫy thì anh S, chị A không còn tài sản nên không lấy được nợ vì vậy khởi kiện ra Tòa án yêu cầu giải quyết và đề nghị Tòa án tính lãi suất đối với việc anh S, chị A chậm thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn.

[3.2] Mặc dù khi chốt nợ hai bên không ghi thời hạn trả nợ và thỏa thuận về lãi suất (theo lời trình bày của ông K hai bên chỉ thỏa thuận miệng), nhưng tại biên bản làm việc tại UBND xã Đ vào ngày 25/02/2020 anh S đã thừa nhận còn nợ ông K số tiền 65.200.000 đồng và chưa tính lãi suất. Theo quy định tại khoản 3 Điều 440 của Bộ luật dân sự 2015 thì “Trường hợp bên mua không thực hiện đúng nghĩa vụ trả tiền thì phải trả lãi trên số tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật này”. Mặt khác, tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự quy định “Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ” và lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, như vậy lãi suất trong trường hợp này được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn là 20%/năm, nghĩa là bằng 10%/năm.

[3.3] Trong quá trình giải quyết vụ án do bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không hợp tác, không đến Tòa án làm việc theo giấy triệu tập của Tòa án, không có mặt khi Tòa án công khai chứng cứ và hòa giải thể hiện việc bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan từ bỏ quyền lợi của mình nên Tòa án căn cứ khoản 4 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự để giải quyết. Khoản 4 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Toà án giải quyết vụ án dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc”.

[3.4] Số tiền ông K cho anh S, chị A nợ là tài sản riêng của ông K. Tòa án đã tiến hành làm việc với bà Nguyễn Thị H (vợ ông K) và bà Hương cũng thừa nhận đây là tài sản riêng của ông K, không liên quan đến bà và bà không có yêu cầu gì trong vụ án này.

[4] Từ những phân tích nêu trên HĐXX xét thấy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Xuân K, buộc vợ chồng anh Đinh Văn S và chị Gia Thị A phải liên đới trả cho ông Vũ Xuân K số tiền gốc và tiền lãi suất cụ thể như sau:

- Tiền gốc: 65.200.000 đồng;

- Tiền lãi chậm trả (từ ngày 27/01/2019 đến ngày 30/9/2020) là: 65.200.000 đồng x 01 năm 08 tháng 03 ngày x 10%/năm = 10.921.000 đồng (làm tròn).

- Tổng cộng: 65.200.000 đồng (tiền gốc) + 10.921.000 đồng (tiền lãi) = 76.121.000 đồng.

Như vậy, cần buộc vợ chồng anh Đinh Văn S và chị Gia Thị A phải liên đới trả cho ông Vũ Xuân K số tiền 76.121.000 đồng (trong đó gồm 65.200.000 đồng tiền gốc và 10.921.000 đồng tiền lãi).

[5] Về án phí: Bị đơn anh Đinh Văn S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận.

các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Áp dụng khoản 1 Điều 275; Điều 351; Điều 385; Điều 430; Điều 440; khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

1. Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Vũ Xuân K.

Buộc vợ chồng anh Đinh Văn S và chị Gia Thị A phải liên đới trả cho ông Vũ Xuân K số tiền 76.121.000 đồng (Bảy mươi sáu triệu một trăm hai mươi mốt nghìn đồng), trong đó gồm 65.200.000 đồng tiền gốc và 10.921.000 đồng tiền lãi.

Áp dụng khoản 2 Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự để tính lãi suất chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo quy định của pháp luật.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14. Buộc anh Đinh Văn S phải nộp 3.806.000 đồng (Ba triệu tám trăm linh sáu nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Trả lại cho ông Vũ Xuân K số tiền 1.630.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí lệ phí Tòa án số 0000839 ngày 05/3/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Đăk Nông.

3. Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án tại chính quyền địa phương và nơi cư trú.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2020/DS-ST ngày 30/09/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:27/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Đức - Đăk Nông
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về