Bản án 27/2019/HSST ngày 17/04/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 27/2019/HSST NGÀY 17/04/2019 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Vào hồi 08 giờ 00 phút, ngày 17 tháng 4 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 25/2019/HSST ngày 12 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2019/HSST-QĐ ngày 01/4/2019, đối với bị cáo:

Trần Thị Lệ Gi; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 08/9/1985 tại B, Quảng Bình; Nơi ĐKNKTT/chỗ ở: Thôn Th, S, B, Quảng Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Trần Minh Ch, sinh năm 1961 và bà Trần Thị T, sinh năm 1961; Hiện trú tại: Thôn C, xã S, B, Quảng Bình; Chồng: Trương Quang Ng (chết); Con: Có 02 đứa, đứa lớn sinh năm 2009, đứa nhỏ sinh năm 2011; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo Trần Thị Lệ Gi bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Theo Giấy triệu tập, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14h00 ngày 02/01/2019, Trần Thị Lệ Gi ngồi uống nước gần trung tâm du lịch Phong Nha - Kẻ Bàng, xã Sơn Trạch thì có gặp một người phụ nữ không quen biết. Do có nhu cầu mua pháo để đốt dịp tết nguyên đán 2019 nên Gi hỏi mua 05 hộp pháo hoa với giá 500.000 đồng mỗi hộp, người phụ nữ trên đồng ý bán nên lấy và đưa cho Gi một bao tải lác màu xanh bên trong có 05 hộp pháo hình chữ nhật có hình ảnh pháo hoa nhiều màu sắc. Gi chở 05 hộp pháo nói trên đến cất giấu phía sau tượng đài nghĩa trang Phong Nha đến ngày 07/01/2019 Gi điều khiển xe mô tô nhãn hiệu SH MODE, BKS 73F1-309.68 đến lấy số pháo hoa đã cất giấu trước đó vận chuyển về nhà thì bị lực lượng Cơ quan CSĐT Công an huyện Bố Trạch phát hiện bắt quả tang. Kết luận giám định số 138/GĐ-PC09 ngày 11/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận, 05 (năm) khối hình hộp lập phương, có chữ “CHONG KOL”, mã ký hiệu “C0836”, trên vỏ hộp có dòng chữ “MADE IN CHI NA”, “36 shots” thu giữ tại Trần Thị Lệ Gi là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi đốt có gây tiếng nổ), tổng khối lượng là 6,8 kg (sáu phẩy tám ki lô gam).

Vật chứng vụ án:

Thu giữ và xử lý trả lại cho Trần Thị Lệ Gi 01 ĐTDĐ nhãn hiệu NOKIA RM1187, số IMEI 1: 3573343083606148, số IMEI 2: 357343087606144; 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA SH MODE, màu sơn xanh - nâu, BKS 73F1 - 309.68.

Thu giữ 05 (năm) hộp pháo nổ, mỗi hộp có kích thước 14 x 14 x 12 cm, bên ngoài vỏ giấy nhiều màu sắc, in chữ nước ngoài và hình pháo hoa, có chữ “CHONG KOL”, mã ký hiệu “C0836”, trên vỏ hộp có dòng chữ “MADE IN CHI NA”, trong mỗi hộp có 36 (ba mươi sáu) vật hình trụ tròn vỏ giấy, liên kết lại với nhau bằng dây ngòi, tổng khối lượng 6,8 kg. Sau giám định còn lại 04 hộp pháo có trọng lượng 5,4kg, hiện chưa xử lý.

Tại bản cáo trạng số 26/THQCT-KSĐT ngày 12/3/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch để xét xử Trần Thị Lệ Gi về tội: “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017 - Gọi tắt là Bộ luật hình sự).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch giữ nguyên Cáo trạng truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản của Bộ luật hình sự như đã nêu trên, và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự; Các điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật hình sự.

Đề nghị xử phạt:

Bị cáo Trần Thị Lệ Gi từ 06 tháng đến 09 tháng tù, cho hưởng án treo thời gian thách từ 12 tháng đến 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (17/4/2019).

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Giao bị cáo Trần Thị Lệ Gi cho Ủy ban nhân dân xã Sơn Lộc, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách của án treo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Miễn hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng và buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bố Trạch, Điều tra viên Công an huyện Bố Trạch, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy:

Lời khai nhận tội của bị cáo, không gian, thời gian, địa điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội bị phát hiện hoàn toàn phù hợp nhau. Do đó Hội đồng xét xử có cơ sở xác định:

Xuất phát từ ý thức coi thường pháp luật, không tuân thủ các quy định của Nhà nước về quản lý hàng hóa, Khoảng 14h00 ngày 07/01/2019, Trần Thị Lệ Gi vận chuyển 05 (năm) hộp pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi đốt có gây tiếng nổ), tổng trọng lượng là 6,8 kg trên xe mô tô BKS 73F1 - 309.68 tại địa phận thôn Thọ Lộc, xã Vạn Trạch thì bị phát hiện bắt quả tang.

Xét quá trình nhân thân, hành vi, mức độ, hậu quả phạm tội của bị cáo gây ra trong vụ án này thấy rằng: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi khi thực hiện hành vi phạm tội, hành vi của bị cáo xâm phạm đến khách thể là trật tự quản lý loại hàng hóa mà nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng...tại Việt Nam với lỗi cố ý trực tiếp, nguy hiểm cho xã hội và đã cấu thành tội phạm quy định trong Bộ luật hình sự, hành vi đó không những xâm phạm trực tiếp đến các quy định của Nhà nước trong việc quản lý, kiểm soát hàng hóa mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo biết rõ như vậy nhưng do ý thức coi thường pháp luật nên đã phạm tội. Nên đối với bị cáo cần xử phạt mức án tương xứng với tính chất, mức độ hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra nhằm giáo dục răn đe và phòng ngừa chung về loại tội phạm này.

[3] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, từ trước đến trước thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị cáo luôn chấp hành tốt chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, các tình tiết giảm nhẹ này được quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hiện nay hoàn cảnh gia đình bị cáo có khó khăn, một mình phụ nữ đơn thân (chồng chết) phải nuôi hai con nhỏ, mẹ già ốm đau, bị cáo chưa có công ăn việc làm ổn định và theo xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Sơn Lộc thì gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo năm 2019. Bên cạnh đó khối lượng pháo nổ cũng tương đối ít (6,8 kg pháo nổ), mới trên một phần tang số tối thiểu cấu thành cơ bản của tội phạm này, những tình tiết giảm nhẹ này cũng được xem xét cho bị cáo Giang là phù hợp.

Đánh giá tính chất vụ án, Hội đồng xét xử thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhân thân tốt, hiện nay có nơi cư trú ổn định, rõ ràng nên cần xem xét cho bị cáo cải tạo, giáo dục tại địa phương cũng đã có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo chưa có công việc ổn định, thuộc diện hộ cận nghèo năm 2019 nên cần miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp.

[7] Về xử lý vật chứng: Số vật chứng đã được cơ quan tiến hành tố tụng xử lý đúng pháp luật nên miễn xét.

Riêng số vật chứng thu giữ, gồm: 05 (năm) hộp pháo nổ, mỗi hộp có kích thước 14 x 14 x 12 cm, bên ngoài vỏ giấy nhiều màu sắc, in chữ nước ngoài và hình pháo hoa, có chữ “CHONG KOL”, mã ký hiệu “C0836”, trên vỏ hộp có dòng chữ “MADE IN CHI NA”, trong mỗi hộp có 36 (ba mươi sáu) vật hình trụ tròn vỏ giấy, liên kết lại với nhau bằng dây ngòi, tổng khối lượng 6,8 kg. Sau giám định còn lại 04 hộp pháo có trọng lượng 5,4kg thuộc hàng cấm nên cần tịch thu tiêu hủy.

Số vật chứng nói trên hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bố Trạch theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 13/3/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bố Trạch và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bố Trạch.

Trong vụ án này còn có đối tượng người phụ nữ đã có hành vi bán pháo nổ cho Trần Thị Lệ Gi, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bố Trạch đã triệu tập Nguyễn Thị Q, sinh năm 1982, trú tại Ph, S tiến hành đối chất nhưng không có cơ sở xác định Q là người đã bán pháo nổ cho Gi nên không xử lý.

Tại phiên tòa, bị cáo nói lời sau cùng là đã thấy được hành vi của mình thực hiện là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử xem xét cân nhắc cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ và cải tạo tại địa phương để có điều kiện cải tạo tốt, sớm hòa nhập cộng đồng làm ăn lương thiện.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Thị Lệ Gi phạm tội: “Vận chuyển hàng cấm”.

[2] Về điều luật áp dụng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; Các điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật hình sự.

[3] Về hình phạt: Xử phạt: Bị cáo Trần Thị Lệ Gi 06 (sáu) tháng tù, cho hưởng án treo thời gian thách 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (17/4/2019).

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Giao bị cáo Trần Thị Lệ Gi cho Ủy ban nhân dân xã S, huyện B, tỉnh Quảng Bình để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách của án treo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

[4 Vật chứng vụ án: Áp dụng các Điều 46 và 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Số vật chứng đã được cơ quan tiến hành tố tụng xử lý đúng pháp luật, nên miễn xét.

- Số vật chứng còn lại chưa xử lý được xử lý như sau: Tịch thu tiêu hủy 04 (bốn) hộp pháo nổ, mỗi hộp có kích thước 14 x 14 x 12 cm, trên vỏ hộp có dòng chữ CHONG KOL C0836, Made in Chi na, “36 shots”và hình ảnh pháo hoa nổ nhiều màu sắc, 04 hộp pháo nói trên đã được đóng gói trong một bao lác, miệng buộc kín và được niêm phong, có chữ ký của Nguyễn Trương Đ, Lưu Đức B, Nguyễn Ngọc S và dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình.

Số vật chứng nói trên hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bố Trạch theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 13/3/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bố Trạch và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bố Trạch.

[5] Về án phí: Áp dụng điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và các Điều 23 Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội 14 quy định về án phí, lệ phí tòa án. Buộc bị cáo Trần Thị Lệ Gi phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

[6] Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm, bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (17/4/2019) để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

494
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2019/HSST ngày 17/04/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:27/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bố Trạch - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:17/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về