Bản án 27/2017/DSST ngày 13/10/2017 về kiện tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 27/2017/DSST NGÀY 13/10/2017 VỀ KIỆN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 13/10/2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc đã đưara xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 123/2016/TLST- HNGĐ, ngày31/10/2016 về việc “Kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2017/QĐXXST-DS, ngày  02  tháng  10  năm 2017 giữa các đương sự:

1.  Nguyên đơn: anh Lê Hồng T, sinh năm: 1966 (Có mặt) Địa chỉ: xã Q, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

2.  Bị đơn: chị Hoàng Thị Th, sinh năm: 1976 (Có mặt) Cùng địa chỉ: TDP S, thị trấn P, huyện K, tỉnh Đăk Lăk

3.  Nhân chứng: anh Lê Phú P, sinh năm 1986 (Có mặt)

Địa chỉ: xã Q, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn anh Lê Hồng T trình bày:

Theo Hóa đơn ngày 08/9/2014 thì chị Hoàng Thị Th đã nhận của anh T 2,3912 lượng vàng 9999 chưa thanh toán, trị giá 77,787.000đ (bảy mươi bảy triệu, bảy trăm tám mươi bảy nghìn đồng) và theo biên bản đối chiếu công nợ ngày 05/10/2014 thì chị Th trả 50.000.000 (năm mươi triệu đồng) còn nợ lại anh T số tiền 27.787.000 (Hai mươi bảy triệu, bảy trăm tám mươi bảy nghìn đồng) chưa thanh toán và nhận thêm 1,27 lượng vàng 9999). Tuy Nhiên hiện nay chị Th không thanh toán số tiền còn thiếu cho anh T.

Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, anh T làm đơn khởi kiện: yêu cầu chị Hoàng Thị Th trả cho anh T số tài sản còn thiếu chưa thanh toán cho anh T là 1,27 lượng vàng 9999, (Trị giá hiện nay là 60. 200.000đ) và số tiền 27.787.000 (Hai mươi bảy triệu bảy trăm tám mươi bảy ngàn đồng).

Bị đơn chị Hoàng Thị Th trình bày:

Tôi không thừa nhận lời trình bày của người đại diện theo ủy quyền củanguyên đơn anh Võ Ngọc C là đúng tôi có ý kiến như sau:

Do có mối quan hệ quen biết. Theo Hóa đơn ngày 08/9/2014 thì chị Hoàng Thị Th đã nhận của anh T là người đại diện cho công ty TNHH MTV sản xuât vàng trang sức M 2,3912 lượng vàng 9999 và theo biên bản đối chiếu công nợ ngày 05/10/2014 thì chị Th có nhận anh T là người đại diện cho công ty TNHH MTV sản xuất vàng trang sức M số lượng vàng 1,27 lượng vàng 9999 còn nợ lại công ty TNHH MTV sản xuất vàng trang sức M và số tiền 27.787.000 (hai mươi bảy triệu bảy trăm tám mươi bảy ngàn đồng).

Chị Th xác nhận là vào thời điểm ngày 05/10/2014 chị Th có nợ công ty TNHH MTV sản xuất vàng trang sức M 1,270 lượng vàng 9999 và và số tiền 27.787.000 (Hai mươi bảy triệu bảy trăm tám mươi bảy ngàn đồng). Và trước ngày 5/10/2014 công ty có gọi điện thoại cho chị Th chờ xác nhận của công ty TNHH MTV sản xuất vàng M về việc anh T còn làm việc hay không mới trả tiền cho công ty. Nguyện vọng của chị Th là chị Th không có nợ riêng anh T nên chị Th không có trách nhiệm phải trả số 1,270 lượng vàng 9999 cho anh T và số tiền 27.787.000 (Hai mươi bảy triệu bảy trăm tám mươi bảy ngàn đồng) cho anh T.

Kiểm sát viên tại phiên tòa phát biểu về sự tuân theo pháp luật của các đương sự, thẩm phán trong quá trình điều tra cũng như HĐXX tại phiên tòa đã tuân thủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung đề nghị HĐXX Điều 186, 217 của Bộ luật TTDS; Điều 309, Điều 311 của Bộ luật dân sự 2005 và Điều 688 của Bộ luật dân sự 2015. Để đình chỉ, trả lại đơn khởi kiện cho anh Lê Hồng T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định nội dung vụ án như sau:

[1] Về hình thức: Đơn khởi kiện của Lê Hồng T đề ngày 04/10/2016, Toà án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản được quy định tại khoản 3 Điều 26 của BLTTDS và Điều 438 của BLDS. Nguyên đơn Lê Hồng T khởi kiện chị Hoàng Thị Th hiện đang cư trú tại địa bàn huyện Krông Pắc. Nên Toà án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo điểm a khoản 1 Điều 35 của BLTTDS.

[2] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết Toà án đã làm thủ tục tống đạt các văn bản tố tụng, tiến hành hòa giải, đối chất nhưng các đương sự không thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án vì vậy Tòa án căn cứ Điều220 của BLTTDS để quyết định đưa vụ án ra xét xử theo trình tự quy định của pháp luật.

[3] Về nội dung khởi kiện: Xét nội dung anh Lê Hồng T yêu cầu chị Hoàng Thị Th 1,27 lượng vàng 9999 và số tiền 27.787.000 (Hai mươi bảy triệu bảy trăm tám mươi bảy ngàn đồng).

[4] Căn cứ vào khoản 2 Điều 92 của BLTTDS, Toà án xác định nhận hợp đồng mua bán tài sản, ngày 05/10/2014 thì chị Thủy có nhận anh T là người đại diện cho công ty TNHH MTV sản xuất vàng trang sức M số lượng vàng 1,270 lượng vàng 9999 còn nợ lại công ty TNHH MTV sản xuất vàngtrang sức Mvà số tiền 27.787.000 (Hai mươi bảy triệu bảy trăm tám mươi bảy ngàn đồng) là có thật và hợp pháp và phù hợp với quy định tại Điều 428 của Bộ Luật dân sự.Điều 428. Hợp đồng mua bán tài sản

Hợp đồng mua bán tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán.

[5] Tuy nhiên công ty TNHH MTV sản xuất vàng trang sức M không khởi kiện và cũng chưa có văn bản chuyển giao quyền cho anh Lê Hồng T theo quy định tại Điều 309 của Bộ luật dân sự 2005.

[6] Vì vậy yêu cầu của Lê Hồng T là chưa đủ cơ sở, nên cần vận dụng Điều 186, 217 của Bộ luật TTDS; Điều 309, Điều 311 của BLDS 2005 và Điều 688 của BLDS 2015. Để đình chỉ, trả lại đơn khởi kiện cho anh Lê Hồng T.

Các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1Điều 35, khoản 2 Điều 92, khoản 1 Điều 147 Điều 186; Điều 220, Điều 217 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 309, Điều 311 của Bộ luật dân sự năm 2005 và Điều 688 của Bộ luật dân sự 2015

- Tuyên xử: Đình chỉ giải quyết vụ án, trả lại đơn khởi kiện của LêHồng T.

Vụ án được khởi kiện lại theo quy định của pháp luật.

Anh Lê Hồng T được nhận lại 2.200.000đ tiền tạm ứng án phí DSST theo Biên lai thu tạm ứng án phí số AA/2014/2014/0040239, mà anh Lê Hồng T đã nộp ngày 25/10/2016 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.

Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

585
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2017/DSST ngày 13/10/2017 về kiện tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:27/2017/DSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Pắc - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 13/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về