TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 271/2020/HS-ST NGÀY 15/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 15 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 261/2020/TLST- HS ngày 28 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 261/2020/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 9 năm 2020, đối với bị cáo:
Họ tên: Lò Văn T - sinh năm 1996 tại: Tỉnh Điện Biên; nơi cư trú: Bản L, xã L, huyện A, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn B (đã chết) và bà Tòng Thị M; có vợ Lò Thị N và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07-6-2020, sau đó chuyển tạm giam từ ngày 16-6-2020 cho đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định; bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người làm chứng: Anh Dương Văn T1, chị Nguyễn Thúy H (không triệu tập tới phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ 20 phút ngày 06-6-2020, tổ công tác Công an phường Bà Triệu, thành phố Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực quán phở đối diện số nhà 05 đường C, phường T, thành phố Đ phát hiện Lò Văn T có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, tổ công tác đã thu giữ trong túi 1 quần bên phải đang mặc của T 01 gói nilong màu đỏ nhạt, mở kiểm tra bên trong là gói giấy bạc màu vàng, trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng (T khai đó là Heroine). Tổ công tác đã niêm phong vật chứng, đưa T cùng người làm chứng về trụ sở, lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã trưng cầu giám định vật chứng thu giữ. Tại bản kết luận giám định số 628/GĐKTHS ngày 10-6-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng thu giữ của Lò Văn T được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại chất ma túy là Heroine, có khối lượng 0,108 gam (không phẩy một không tám gam).
Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, Lò Văn T khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, đồng thời khai nhận về nguồn gốc gói ma túy như sau: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 06-6-2020, Lò Văn T đang ở khu công nghiệp M, huyện B, tỉnh Nam Định thì gặp một người đàn ông (không rõ lai lịch, địa chỉ) điều khiển xe máy không rõ biển kiểm soát đến rủ T đi ra thành phố Đ mua ma túy về cùng sử dụng. T đồng ý và đưa cho người đàn ông này 50.000 đồng. Người đàn ông nhận tiền của T và điều khiển xe máy chở T đi đến khu vực ngã tư đường T – Đ, thành phố Đ. Người đàn ông này dừng xe và bảo T xuống xe đứng đợi còn người đàn ông đi khoảng 20 phút rồi quay lại và đưa cho T 01 gói ma túy được gói bằng túi nilong màu đỏ nhạt. T cầm gói ma túy cất vào trong túi quần bên phải đang mặc. Sau đó, cả hai đi đến quán phở đối diện số nhà 05 đường C, phường T, thành phố Đ thì người đàn ông này dừng xe và đi đâu không rõ. T vào ăn phở thì bị phát hiện bắt giữ như đã nêu trên.
Đối với đối tượng đã rủ và góp tiền cùng T đi mua ma túy, hiện tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ kết luận nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã tách ra tiếp tục điều tra xử lý sau.
Bản cáo trạng số 261/CT-VKSTPNĐ ngày 28-8-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố bị cáo Lò Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Lò Văn T tại phiên tòa thể hiện hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo Lò Văn T từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù, miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Xử lý vật chứng đã thu giữ theo quy định của pháp luật.
Bị cáo Lò Văn T nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lò Văn T không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về tội danh:
Lời khai nhận tội của bị cáo Lò Văn T phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án nên có đủ cơ sở xác định: Khoảng 19 giờ 20 phút ngày 06-6-2020, Lò Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,108 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang tại quán phở đối diện số nhà 05 đường C, phường T, thành phố Đ. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện, khối lượng Heroine bị cáo tàng trữ là 0,108 gam nên bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Về các tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Lò Văn T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Về hình phạt: Xét bị cáo Lò Văn T phạm tội lần đầu, khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ không lớn, bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên Hội đồng xét xử chỉ xử phạt bị cáo ở mức thấp của khung hình phạt mà bị cáo bị truy tố nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Lò Văn T tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng: Số ma túy đã thu giữ là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để tịch thu tiêu hủy.
[7] Về án phí: Bị cáo Lò Văn T bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Lò Văn T 01 năm 09 tháng tù (Một năm chín tháng tù).
Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 07-6-2020.
2. Xử lý vật chứng:
- Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ (Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhân vật chứng ngày 28-8-2020).
3. Án phí:
- Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016.
Bị cáo Lò Văn T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo:
Bị cáo Lò Văn T được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 271/2020/HS-ST ngày 15/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 271/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về