TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH – TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 271/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/07/2020 VỀ THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU LY HÔN
Ngày 31 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 449/2019/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp “ Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 109/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 6 năm 2020, QĐ hoãn phiên tòa số 92/2020/QĐST-HNGĐ giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: LTMD, sinh năm 1994; Địa chỉ: Tổ 09, ấp Hòa Lợi 2, xã Vĩnh Lợi, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang (vắng mặt, có đơn xin vắng mặt ngày 14/7/2020).
- Bị đơn: TVT, sinh năm 1990; Địa chỉ: Tổ 19, ấp Hòa Thạnh, xã Hòa Bình Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện, tờ tự khai ngày 7/10/2019, quá trình giải quyết nguyên đơn chị LTMD trình bày:
Chị và anh TVT đã được Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang giải quyết ly hôn ngày 04/7/2018 theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 203/2018/QĐST-HNGĐ.
- Về con chung: Tại quyết định thuận tình ly hôn anh TVT được trực tiếp nuôi và chăm sóc cháu TVT, sinh ngày 30/10/2003, chị D không phải cấp dưỡng nuôi con. Nhưng sau khi ly hôn cháu T sống với anh T hay bị bệnh liên tục vì vậy anh T giao cháu T cho chị chăm sóc và anh T thường xuyên vắng nhà, hiện nay anh T lên Bình Dương sống từ khi ly hôn cho đến nay. Nay chị thấy anh T không đủ điều kiện để chăm sóc cháu T, chị yêu cầu Tòa án giao cháu TVT cho chị D nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành, không yêu cầu anh T cấp dưỡng.
Tại bản tự khai ngày 07/10/2019 ý kiến cháu TVT trình bày: Sau khi cha mẹ ly hôn, mẹ và em sống nhà ngoại, cháu sống với ba vì nhớ em nên cháu T thường xuyên bị bệnh nên ba đưa cháu về sống chung với mẹ và em từ tháng 7/2019 cho đến nay, hiện nay ba cũng không có ở nhà, nay cháu có nguyện vọng sống với chị D.
* Tòa án đã tống đạt hợp lệ các thông báo, quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng anh T không đến theo giấy triệu tập cũng như không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị D.
Tại phiên tòa:
-Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và có đơn xin vắng mặt - Bị đơn vắng mặt và không có văn bản trình bày ý kiến.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành phát biểu:
+ Về chấp hành pháp luật: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
+ Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị D.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
1.1 Về quan hệ tranh chấp: Chị D có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Châu Thành giải quyết về việc xin thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự;
1.2 Về thẩm quyền giải quyết: Anh TVT có nơi cư trú tại ấp Hòa Thạnh, xã Hòa Bình Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
1.3 Về sự có mặt của các đương sự:
Đối với các đương sự chị D Tòa án đã tống đạt hợp lệ các quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa nhưng chị D có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm. Còn anh T Tòa án tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng nhưng anh T vẫn cố tình vắng mặt tại các phiên hòa giải và các phiên tòa. Đối chiếu tại khoản 2 điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ Luật Tố tụng dân sự vẫn tiến hành xét xử vắng mặt theo thủ tục chung đối với chị D và anh T.
[2] Về nội dung tranh chấp:
Tại quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 203/2018/QĐST- HNGĐ ngày 04/7/2018 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. Chị D và anh T thống nhất thỏa thuận chị D được tiếp tục nuôi cháu TTCG, anh T được tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng cháu TVT, chị D, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con. Nay chị yêu cầu Tòa án giải quyết giao cháu TVT lại cho chị trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành không yêu anh T cấp dưỡng. Quá trình nuôi dưỡng cháu T do xa mẹ và em nên cháu T hay bị bệnh, đến tháng 7/2019 anh T giao cháu T cho chị D nuôi dưỡng cho đến nay. Xét thấy, từ khi anh T được quyền nuôi dưỡng cháu T, do cháu T hay bị bệnh thường xuyên nên anh T giao cháu T cho chị D nuôi dưỡng, anh không làm tròn trách nhiệm của cha mẹ được quyền nuôi dưỡng con chung sau khi ly hôn, theo như lời trình bày của chị D anh T đã giao cháu Tình lại cho chị D nuôi dưỡng từ tháng 7/2019 cho đến nay, hiện tại anh T đi làm ăn xa không có mặt tại địa phương. Tại biên bản xác minh ngày 26/5/2020 Công an xã Hòa Bình Thạnh xác nhận anh T hiện nay đi làm xa lâu lâu về một lần. Đồng thời xét về nguyện vọng cháu T, tai tờ tự khai ngày 07/10/2019 cháu T trình bày cháu đã về nhà sống với mẹ và em từ tháng 07/2019 cho đến nay, do đó cháu có nguyện vọng được về sống cùng với mẹ và em. Như vậy căn cứ các qui định của pháp luật, chấp nhận yêu cầu của chị D đề nghị Tòa án giao cháu T cho chị nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành và không yêu cầu anh thuận cấp dưỡng nuôi con. Xét yêu cầu của chị D thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Về án phí sơ thẩm:
- Anh T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng Dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14.
- Hoàn trả cho chị LTMD số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí lệ phí Tòa án số 0006600 ngày 09/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành.
[4] Quyền kháng cáo:
Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;
- Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;
- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị LTMD Quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn tại quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 203/2018/QĐST- HNGĐ ngày 04/7/2018 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
Giao lại cháu TVT, sinh ngày 30/10/2013 từ anh TVT đang trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng sang cho chị LTMD được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu Trương Văn Tình từ tháng 7/2020 cho đến khi cháu Tình trưởng thành, anh Trương Văn Thuận không phải cấp dưỡng nuôi con.
Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
2. Về án phí sơ thẩm:
- Anh TVT phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho chị D số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006600 ngày 09/12/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
3. Quyền kháng cáo: Chị D và anh T được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 271/2020/HNGĐ-ST ngày 31/07/2020 về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn
Số hiệu: | 271/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 31/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về