Bản án 271/2020/HNGĐ-ST ngày 28/12/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VỊ THANH, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 271/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 28 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vị Thanh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 237/2020/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 10 năm 2020 về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 119/2020/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị Quỳnh N Địa chỉ: khu vực A, phường B, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.

2. Bị đơn: Ông Lê Đỗ Hoàng M Địa chỉ: khu vực C, phường D, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Lê Thị Quỳnh N trình bày: Bà và ông Lê Đỗ Hoàng M chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường I, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang vào năm 2011. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc nhưng đến khoảng năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông M thường xuyên có hành vi đánh bà nên vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng, bà đã nhiều lần cho ông M cơ hội sửa chữa nhưng không được. Vì vậy, bà yêu cầu được ly hôn với ông Lê Đỗ Hoàng M.

Về con chung: Quá trình chung sống, ông bà có 02 con chung là Lê Minh K, (giới tính: Nam), sinh ngày 16/01/2013 và Lê Khánh D, (giới tính: Nam), sinh ngày 14/8/2015. Bà yêu cầu được nuôi con chung, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung mỗi cháu là 1.000.000 đồng/tháng. Quá trình giải quyết vụ án, bà rút lại không yêu cầu ông Lê Đỗ Hoàng M phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Lê Đỗ Hoàng M vắng mặt nên không có ý kiến trình bày.

Tại phiên tòa, bà N và ông M vắng mặt nên không có ý kiến trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật: Bà Lê Thị Quỳnh N khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Lê Đỗ Hoàng M và yêu cầu được nuôi con chung nên Tòa án xác định đây là tranh chấp ly hôn, nuôi con theo quy định tại Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình, Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn ông Lê Đỗ Hoàng M cư trú tại khu vực 1, phường III, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Vị Thanh theo điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về xét xử vắng mặt: Nguyên đơn bà Lê Thị Quỳnh N có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn ông Lê Đỗ Hoàng M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Do đó, căn cứ vào khoản 1, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Lê Thị Quỳnh N và ông Lê Đỗ Hoàng M.

[4] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Quỳnh N và ông Lê Đỗ Hoàng M đã tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường I, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang vào năm 2015. Do đó, hôn nhân giữa bà N và ông M là hợp pháp. Bà N yêu cầu ly hôn với ông M là do ông M thường có hành vi đánh bà nên vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng, bà N có tìm cách hàn gắn nhưng vẫn không được. Vì vậy, bà N cương quyết xin ly hôn. Trong khi đó, ông M vẫn bỏ mặc và cũng không đến Tòa án để trình bày ý kiến. Điều đó, chứng tỏ tình cảm của ông M đối với bà N cũng không còn, ông M cũng không muốn hàn gắn lại. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy, hôn nhân giữa bà N và ông M đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà N, cho bà N ly hôn với ông M là phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Về con chung: Quá trình chung sống, ông bà có 02 con chung là Lê Minh K, (giới tính: Nam), sinh ngày 16/01/2013 và Lê Khánh D, (giới tính: Nam), sinh ngày 14/8/2015. Bà N có nguyện vọng được nuôi cả 02 con chung. Trong quá trình giải quyết, cháu Lê Minh K cũng có nguyện vọng được sống chung với bà N. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy giao cháu Lê Minh K và Lê Khánh D cho bà N được quyền trực tiếp nuôi dưỡng là đảm bảo tốt nhất quyền lợi cho các cháu và phù hợp với Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

[6] Về cấp dưỡng: Quá trình giải quyết vụ án, bà Lê Thị Quỳnh N rút lại không yêu cầu ông Lê Đỗ Hoàng M phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy, việc bà N rút lại yêu cầu là tự nguyện và phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ đối với yêu cầu này theo Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự.

[7] Về tài sản chung và nợ chung: Bà N trình bày không có và cũng không yêu cầu, ông M chưa có ý kiến trình bày nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong cùng vụ án.

[8] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bà N phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 228, Điều 238 và Điều 244 Bộ Luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị Quỳnh N.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Quỳnh N được ly hôn với ông Lê Đỗ Hoàng M.

2. Về con chung: Giao cháu Lê Minh K, (giới tính: Nam), sinh ngày 16/01/2013 và Lê Khánh D (giới tính: Nam), sinh ngày 14/8/2015 cho bà Lê Thị Quỳnh N được quyền trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Lê Đỗ Hoàng M chưa phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung do bà Lê Thị Quỳnh N chưa yêu cầu. Ông Lê Đỗ Hoàng M có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng: Đình chỉ đối với yêu cầu cấp dưỡng của bà Lê Thị Quỳnh N. Các đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại theo quy định của pháp luật.

4. Về tài sản chung và nợ chung: Do chưa có yêu cầu nên chưa xem xét giải quyết trong cùng vụ án.

5. Về án phí: Buộc nguyên đơn bà Lê Thị Quỳnh N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Chuyển 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí bà N đã nộp theo biên lai số 0006061 ngày 19 tháng 10 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vị Thanh thành án phí, bà N không phải nộp thêm.

6. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 271/2020/HNGĐ-ST ngày 28/12/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:271/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vị Thanh - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:28/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về