Bản án 271/2020/HNGĐ-ST ngày 23/09/2020 về việc ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI 

BẢN ÁN 271/2020/HNGĐ-ST NGÀY 23/09/2020 VỀ VIỆC LY HÔN

Ngày 23 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 1744/2020/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 7 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 210/2020/QĐXX-ST ngày 20 tháng 8 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 301/2020/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 9 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Phạm Anh V, sinh năm 1992 - Vắng mặt.

Địa chỉ: 108, đường ĐC 11, phường S, quận T, thành phố H.

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thùy A, sinh năm 1992 - Vắng mặt. Địa chỉ: 29/38, Khu phố 8, phường H, thành phố B, tỉnh Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai, lời trình bày tại biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 20/8/2020, nguyên đơn ông Phạm Anh V trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà Nguyễn Thụy Thùy A kết hôn vào năm 2018, tại Ủy ban nhân dân phường H, thành phố B, tỉnh Đ, hôn nhân tự nguyện. Quá trình chung sống, vợ chồng hạnh phúc đến tháng 2/2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, thường hay cãi vã, không có tiếng nói chung. Vợ chồng cũng đã nhiều lần ngồi lại nói chuyện với nhau nhưng không có kết quả. Sau khi xảy ra mâu thuẫn thì khoảng tháng 3/2019, bà A bỏ về nhà mẹ ruột của mình tại phường H, thành phố B sinh sống cho tới nay. Trong thời gian ly thân, cả hai bên cũng không ai quan tâm đến ai. Ông xác định mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt và tình cảm cũng không còn nên ông yêu cầu Tòa án cho ông được ly hôn với bà A.

Về con chung: Không có.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

* Theo bản tự khai, lời trình bày tại biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 20/8/2020, bị đơn bà Nguyễn Thị Thùy A trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Về thời gian kết hôn cũng như nơi đăng ký kết hôn đúng như ông Phạm Anh V trình bày. Bà xác định trong thời gian chung sống với nhau, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân cụ thể do cả hai không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống, thường xảy ra cãi vã. Mâu thuẫn đỉnh điểm là ông V đã có hành vi bạo hành bà trong thời gian sống chung với nhau. Sau sự việc đó, bà đã bỏ về nhà mẹ ruột của mình tại phường H, thành phố B sống từ tháng 3/2019 cho đến nay. Trong thời gian trên, cả hai cũng không ai qua lại hỏi han, quan tâm đến nhau. Tuy nhiên, ông V làm đơn xin ly hôn thì bà không đồng ý vì lý do sự việc xảy ra là do lỗi của ông V, đồng thời bà cũng muốn có thêm thời gian để suy nghĩ lại.

Về con chung: Không có.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

* Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án được thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận đơn xin ly hôn của ông Phạm Anh V; Về con chung: Không có; Về tài sản chung và nợ chung: Không có; Về án phí đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Phạm Anh V có đơn xin vắng mặt khi xét xử; bà Nguyễn Thị Thùy A mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tòa để tham gia phiên tòa xét xử nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên căn cứ theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử vắng mặt ông V và bà A.

[2] Về thẩm quyền: Ông Phạm Anh V khởi kiện bà Nguyễn Thị Thùy A, có địa chỉ nơi cư trú: 29/38, khu phố 8, phường H, thành phố B, tỉnh Đ, yêu cầu xin ly hôn. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Ông V và bà A tự nguyện xây dựng gia đình với nhau vào năm 2018, có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND phường H, thành phố B theo luật định nên căn cứ Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, công nhận hôn nhân giữa ông V và bà A là hợp pháp.

[4] Qua đơn xin ly hôn của ông V, tại bản tự khai và lời trình bày tại các biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giải cho thấy mâu thuẫn giữa ông V và bà A là có thật thể hiện ở việc cả hai đã không còn sống chung với nhau từ tháng 3/2019 cho đến nay. Trong thời gian ly thân cả hai đều không có thiện chí để vợ chồng hàn gắn đoàn tụ với nhau. Nhận thấy mục đích hôn nhân giữa ông V và bà A từ lâu đã không còn đạt được nên nếu có tạo điều kiện về thời gian cho cả hai hòa giải hàn gắn cũng không có kết quả, vì vậy căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, chấp nhận đơn xin ly hôn của ông V giải quyết cho ông V được ly hôn bà A.

[5] Về con chung: Không có.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

[7] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Ông V phải chịu số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

[8] Quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 238, Điều 273 và Điều 280 của Bộ luật Tố tụng Dân sự:

Căn cứ các Điều 56, 57 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014:

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn xin ly hôn của ông Phạm Anh V. Ông Phạm Anh V được ly hôn bà Nguyễn Thị Thùy A.

Về con chung: Không có.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Án phí HNGĐ sơ thẩm: Ông Phạm Anh V phải chịu số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0009829 ngày 15/7/2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Ông Phạm Anh V và bà Nguyễn Thị Thùy A được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo qui định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 271/2020/HNGĐ-ST ngày 23/09/2020 về việc ly hôn

Số hiệu:271/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về