Bản án 271/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 271/2019/HS-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 262/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 286/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Xuân T, sinh năm 1982 tại tỉnh Thanh Hóa. Nơi ĐKHKTT: Khu phố X, phường N, thị xã B, tỉnh Thanh Hóa; tạm trú: Ấp A, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương. Trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Buôn bán; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Bùi Xuân L (đã chết) và bà Mai Thị C; có vợ là Nguyễn Thị P và 02 người con, lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2013; Tiền án: Ngày 08/3/2019, bị cáo bị Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Bình Dương xét xử và tuyên phạt 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm 04 tháng tính từ ngày tuyên án về tội trộm cắp tài sản, quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 03/8/2019 và tạm giam cho đến nay; có mặt.

Bị hại: Bà Đoàn Thị Kim L, sinh năm 1981. Địa chỉ: Khu X, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1985. Địa chỉ: Ấp A, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bùi Xuân T và chị Đoàn Thị Kim L là bạn bè quen biết nhau qua mạng xã hộ Zalo từ khoảng đầu tháng 7/2019.

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 30/7/2019, Bùi Xuân T gọi điện thoại rủ chị Đoàn Thị Kim L đi uống nước thì chị L đồng ý và hẹn gặp nhau tại quán cà phê TX, địa chỉ tại phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Sau đó, T điều khiển xe mô tô hiệu Honda Wave, màu đỏ (Không rõ biển số) đi từ nhà ở xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương đến quán TX gặp chị L. Khi T chạy xe đến ngã tư CM, địa chỉ tại phường H thì do xe của T bị hư nên T gửi xe tại tiệm sửa xe gần đó và đi bộ đến quán cà phê TX để gặp chị L còn chị L điều khiển xe mô tô hiệu Honda Vision, màu đỏ, biển số 61K1 - 011.XY đến quán cà phê TX gặp T. Tại đây, cả hai ngồi nói chuyện với nhau được khoảng 30 phút thì chị L đứng dậy đi vào nhà vệ sinh và để chùm chìa khóa xe mô tô hiệu Honda Vision, màu đỏ, biển số 61K1 - 011.XY trên bàn tại vị trí mà chị L và T ngồi. Lúc này, T nhìn thấy chùm chìa khóa của chị L và nảy sinh ý định trộm cắp xe bán lấy tiền tiêu xài nên T quan sát thấy chị L đã đi vào nhà vệ sinh thì T lén lấy chùm chìa khóa và đi đến vị trí để xe mô tô hiệu Honda Vision, màu đỏ, biển số 61K1 - 011.XY, cắm chìa khóa vào 0 khóa để khởi động xe rồi điều khiển chạy đến phường L, thị xã T, tỉnh Bình Dương gặp một người đàn ông khoảng 30 tuổi (Hiện không xác định rõ nhân thân, lai lịch) để bán được số tiền 3.000.000 (Ba triệu) đồng. Sau khi bán được xe mô tô hiệu Honda Vision, màu đỏ, biển số 61K1 - 011.XY, T đón xe ôm quay về tiệm sửa xe gần ngã tư CM để lấy xe mô tô hiệu Honda Wave, màu đỏ đi về nhà của T ở xã A và tiêu xài hết số tiền bán xe trộm cắp được của chị L.

Đến 21 giờ 20 phút ngày 02/8/2019, chị Đoàn Thị Kim L đi chơi thì nhìn thấy Bùi Xuân T đang ngồi trong quán cà phê TT, địa chỉ tại khu phố X, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương nên đã đến Công an phường T trình báo sự việc chị L nghi ngờ T trộm cắp xe mô tô của chị L để Công an phường Thới Hòa mời T về trụ sở làm việc. Tại đây, T đã thừa nhận hành vi trộm cắp xe mô tô hiệu Honda Vision, màu đỏ, biển số 61K1 - 011.XY của chị L vào ngày 30/7/2019 tại quán cà phê TX, địa chỉ tại phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương và xin tự nguyện giao nộp chùm chìa khóa xe của chị L đang được T cất giấu tại nhà của T, địa chỉ tại xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương. Ngày 03/8/2019, Công an phường T đã chuyển hồ sơ vụ việc và đối tượng Bùi Xuân T đến Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thủ Dầu Một để xử lý theo thẩm quyền.

Căn cứ Bản kết luận định giá tài sản số 248/KLTS-TTHS ngày 08/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thủ Dầu Một kết luận: Xe mô tô hiệu Honda Vision, màu đỏ, biển số 61K1 - 011.XY trị giá 14.500.000 (Mười bốn triệu, năm trăm ngàn) đồng.

Đối với chùm chìa khóa gồm có 01 (Một) USB dạng chìa khóa, 01 (Một) chìa khóa xe ô tô màu đen và 01 (Một) chìa khóa màu trắng của chị Đoàn Thị Kim L do Bùi Xuân T tự nguyện giao nộp, ngày 12/8/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thủ Dầu Một đã giao trả lại cho chị L theo Quyết định xử lý vật chứng số 176/QĐ-CSĐT-ĐTTH ngày 12/8/2019.

Đối với chiếc xe mô tô hiệu Honda Vision, màu đỏ, biển số 61K1 - 011.XY, ngày 10/09/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thủ Dầu Một đã ra Thông báo số 1922/TB-CSĐT truy tìm nhưng đến nay vẫn chưa thu hồi được. Ngày 12/8/2019, chị Nguyễn Thị P (Là vợ của Bùi Xuân T) đã thay mặt T bồi thường thiệt hại cho chị Đoàn Thị Kim L số tiền 33.000.000 (Ba mươi ba triệu) đồng và hiện nay, chị L không có yêu cầu gì khác đối với T.

Đối với người đàn ông khoảng 30 tuổi đã mua xe mô tô hiệu Honda Vision, màu đỏ, biển số 61K1 - 011.XY của Bùi Xuân T, quá trình điều tra T khai không rõ nhân thân, lai lịch của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thủ Dầu Một không có cơ sở để làm rõ, xử lý.

Cáo trạng số 275/CT-VKS-HS ngày 13/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo Bùi Xuân T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù đồng thời đề nghị tổng hợp hình phạt với bản án số 35/2019/HS-ST ngày 08/3/2019 của Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Bình Dương.

Về trách nhiệm dân sự: Không yêu cầu giải quyết.

Về biện pháp tư pháp: Không có.

Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can, biên bản lấy lời khai của bị hại cùng những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 17 giờ 30 ngày 30/7/2019, tại quán cà phê TX, địa chỉ phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương, Bùi Xuân T đã có hành vi lén lút lấy trộm chiếc xe mô tô hiệu Honda Vision, màu đỏ, biển số 61K1 - 011.XY trị giá 14.500.000 (Mười bốn triệu, năm trăm ngàn) đồng của chị Đoàn Thị Kim L. Do đó, hành vi mà bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ; gây mất trật tự, trị an tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Về nhận thức, bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì tham lam mà bị cáo đã bất chấp sự trừng phạt của pháp luật, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Do đó cần cách ly ra khỏi xã hội để các bị cáo thấy được mức độ nguy hiểm cũng như hậu quả do hành vi phạm tội của bản thân nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo ý thức chấp hành pháp luật đồng thời răn đe, phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội. Ngoài ra, bị cáo phạm tội trong thời gian thử thách của án treo nên căn cứ Khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự, mức hình phạt 08 tháng tù, cho hưởng án treo mà bị cáo đã bị xử phạt theo bản án số 35/2019/HS-ST ngày 08/3/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương sẽ chuyển thành án tù giam và Hội đồng xét xử sẽ áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt đối với bị cáo.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội do cố ý. Đây là tình tiết tăng nặng “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho bị hại và bị hại đã có đơn bãi nại. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Căn cứ vào nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là nặng so với tính chất, mức độ hành vi của bị cáo, cần quyết định mức hình phạt thấp hơn so với đề nghị của Viện kiểm sát nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị cáo đã bồi thường cho bị hại số tiền 33.000.000 đồng, bị hại đã có đơn bãi nại và không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét giải quyết.

[7] Về biện pháp tư pháp: Không có.

[8] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 136, 260, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Bùi Xuân T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2/ Về hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Bùi Xuân T 09 (chín) tháng tù.

Áp dụng Khoản 5 Điều 65 và Điều 56 của Bộ luật hình sự. Tổng hợp hình phạt tại Bản án số 35/2019/HS-ST ngày 08/3/2019 của Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Bình Dương. Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 01 (một) năm 05 (năm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/8/2019.

3/ Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét.

4/ Về biện pháp tư pháp: Không có.

5/ Về án phí: Buộc bị cáo nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 271/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:271/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về