Bản án 271/2018/HS-ST ngày 22/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 271/2018/HS-ST NGÀY 22/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 22/11/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 273/2018/TLST-HS ngày 06/11/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 278/2018/QĐXXST-HS ngày 08/11/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lường Thị B; Tên gọi khác: Không. Sinh năm: 1972, tại Điện Biên.

Nơi đăng ký NKTT và chỗ ở: Đội T, xã Noong L, h Điện B, tỉnh Điện Biên.

Nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ học vấn: 2/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lường Văn B - SN 1930 (Đã chết) và con bà Lường Thị T - SN 1936 (Đã chết); chồng: Lò Văn M - SN 1970 (Đã chết) và có 02 người con, con lớn sinh năm 1993, con nhỏ sinh năm 1998; tiền án: Không; tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 12/3/2009 bị Tòa án nhân dân huyện Điện B xử phạt 07 năm tù giam về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Đến ngày 30/8/2013 được đặc xá trở về địa phương. Hiện đã được xóa án tích; bị tạm giữ tạm giam từ ngày 31/7/2018 đến ngày xét xử, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ ngày 31/7/2018, Lường Thị B đang ở nhà thuộc đội 11, xã Nong L, huyện Điện Biên thì có một người đàn ông dân tộc L ào khoảng 30 tuổi không biết tên và địa chỉ vào nhà xin uống nước. Sau đó người đó hỏi bị cáo có mua Hồng phiến không. Bị cáo đồng ý. Qua trao đổi thỏa thuận, bị cáo đã mua được của người đàn ông đó 60 viên hồng phiến, trong đó có 58 viên màu hồng và 02 vi ên màu xanh được đựng trong 01 túi nilon màu hồng, miếng túi có nếp gấp cố định và 01 gói heroine được gói bên ngoài bằng nilon màu trắng với giá 1.200.000 đồng. Sau đó người đàn ông đi khỏi nhà còn bị cáo cất gói heroine cùng gói hồng phiến mua đ ược vào trong chiếc túi vải màu đen treo ở trước bụng, mục đích để sử dụng. Hồi 10 giờ cùng ngày khi bị cáo đang đứng ở dưới gầm sàn nhà thì tổ công tác Công an huyện Đ B đến kiểm tra phát hiện và thu giữ bên trong chiếc túi vải màu đen có khóa của Lường Thị B đang đeo trước bụng 01 túi nilon màu hồng, miệng túi có nếp gấp cố định, bên trong có 60 viên nghi là Methamphetamine gồm 58 viên màu hồng, 02 viên màu xanh và 01 gói nghi là heroine.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng hồi 16 giờ 30 phút, ngày 31/7/2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Điện B đã xác định: Số vật chứng thu giữ khi bắt quả tang của Lường Thị B gồm 58 viên màu hồng nghi ma túy tổng hợp có khối lượng 6,22 gam, trích mẫu gửi giám định 0,23 gam; 02 viên nén màu xanh có khối lượng 0,24 gam trích mẫu gửi giám định 0,12 gam; số cục bột màu trắng nghi heroine có khối lượng 0,4 gam, trích mẫu 0,1 gam gửi giám định.

Tại Bản kết luận giám định số: 711/GĐ-PC54 ngày 13/8/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Số mẫu vật viên nén màu hồng và viên nén màu xanh gửi giám định của Lường Thị B là Methamphetamine. Mẫu chất bột màu trắng là heroine. Không hoàn lại mẫu sau khi giám định.

Tại phiên tòa, bị cáo cũng thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã truy tố: Do cần có ma túy để sử dụng nên bị cáo đã đi mua ma túy và bị bắt quả tang khi đang cất giấu trong người 6,46 gam Methamphetamine và 0,4 gam heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đã thành khẩn thật thà khai báo.

Tại bản Cáo trạng số 218/CT-VKSĐB ngày 06/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên đã truy tố bị cáo về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm n Khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên luận tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm n Khoản 2 Điều 249/BLHS năm 2015; Điểm s Khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS năm 2015: Xử phạt bị cáo Lường Thị B từ 06 năm 06 tháng đến 07 năm tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy". Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 249/BLHS năm 2015.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 túi vải màu đen có khóa kéo cũ đã qua sử dụng và tổng khối lượng 6,46 gam Methamphetamine, đã trích mẫu gửi giám định 0,35 gam không hoàn lại mẫu và 0,4 gam heroine, đã trích mẫu gửi giám định 0,1 gam không hoàn lại mẫu.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo thuộc hộ nghèo, đề nghị HĐXX miễn án phí HSST cho bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận với đại viện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ tội cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]Xét hành vi của bị cáo bị truy tố: Hồi 10 giờ ngày 31/7/2018, Bị cáo Lường Thị B đã có hành vi cất giấu trái phép trên người 6,46 gam Methamphetamine và 0,4 gam heroine, tổng khối lượng 2 chất ma túy là 6,86 gam với mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo được chứng minh bằng biên bản bắt ng ười phạm tội quả tang (BL 01- 02); Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng (BL 08, 09); Kết luận giám định (BL 35); các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung bị cáo, các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và quá trình thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay. Hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249/BLHS năm 2015.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Với tác hại của chất ma túy đối với sức khỏe con người và mối nguy hại của nó đối với gia đình và xã hội. Nhà nước và toàn thể Nhân dân đang có những chính sách, biện pháp phòng chống ngăn chặn nhằm đẩy lùi tệ nạn và những tội phạm về ma túy thì bị cáo lại tiếp tay cho tội phạm ma túy phát triển, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội, gây hoang mang trong quần chúng Nhân dân.

Từ những phân tích trên, HĐXX khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.

[3] Xét tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Bị cáo đã tàng trữ 6,46 gam Methamphetamine và 0,4 gam heroine, tổng khối lượng của 2 chất ma túy là 6,86 gam để sử dụng cho bản thân. Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc điểm n khoản 2 Điều 249/BLHS năm 2015 với mức hình phạt từ 05 đến 10 năm tù

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Lường Thị B sinh ra và lớn lên tại Điện Biên, đi học hết lớp 2/12 thì ở nhà cùng gia đình. Đến năm 1992 thì xây dựng gia đình với Lò Văn M và có 02 người con. Ngày 12/3/2009 bị Tòa án nhân dân huyện Điện B xử phạt 07 năm tù giam về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Đến ngày 30/8/2013 được đặc xá trở về địa phương. Bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2016. Bị cáo đã phạm tội rất nghiêm trọng, đã được giáo dục, cải tạo, học tập về các đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước và được đặc xá trở về địa phương song không lấy đó làm bài học tu dưỡng và rèn luyện bản thân, phấn đấu trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội lại tiếp tục phạm tội, coi thường pháp luật, hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, HĐXX xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo Điểm s Khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Bị cáo có bố đẻ là ông Lường Văn V (Lường Văn B) được nhà nước tặng thưởng huy chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhất nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 BLHS. Bị cáo không có tiền sự, không có tình tiết tăng nặng nào song là người có nhân thân xấu.

HĐXX xét xử sẽ cân nhắc hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo để có mức hình phạt phù hợp với tính chất mức độ rất nguy hiểm của hành vi phạm tội nhưng nhất thiết phải nghiêm khắc phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để lần nữa cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, bị cáo khai mua của một người đàn ông dân tộc Lào khoảng 30 tuổi không biết tên và địa chỉ tại nhà bị cáo, Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra làm rõ, HĐXX không xem xét.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo Khoản 5 Điều 249/BLHS năm 2015. Song xét thấy hoàn

cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo là người sử dụng ma túy nguồn thu nhập chính nhờ làm ruộng nên không có khả năng thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điểm a, c Khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a, c Khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 01 túi vải màu đen có khóa kéo cũ đã qua sử dụng và tổng khối lượng 6,46 gam Methamphetamine, đã trích mẫu gửi giám định 0,35 gam không hoàn lại mẫu và 0,4 gam heroine, đã trích mẫu gửi giám định 0,1 gam không hoàn lại mẫu.

[7] Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS và Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: HĐXX miễn án phí HSST cho bị cáo.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điểm n Khoản 2 Điều 249/BLHS; Điểm s Khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51/BLHS năm 2015:

1. Tuyên bố: Bị cáo Lường Thị B phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt: Bị cáo Lường Thị B 06 (Sáu) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 31/7/2018.

3. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điểm a, c Khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a, c Khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 01 túi vải màu đen có khóa kéo cũ đã qua sử dụng và tổng khối lượng 6,46 gam Methamphetamine, đã trích mẫu gửi giám định 0,35 gam không hoàn lại mẫu và 0,4 gam heroine, đã trích mẫu gửi giám định 0,1 gam không hoàn lại mẫu.

(Toàn bộ vật chứng đã được Công an huyện Điện Biên bàn giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên hồi 15 giờ 30 phút ngày 12 tháng 11 năm 2018)

4. Án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Miễn án phí HSST cho bị cáo.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, ngày 22/11/2018.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 271/2018/HS-ST ngày 22/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:271/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về