TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 271/2017/DS-ST NGÀY 05/12/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Trong ngày 05 tháng 12 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 102/2017/TLST-DS ngày 10 tháng 5 năm 2017 về “Tranh chấp về hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 131/2017/QĐXXST-DS ngày 30 tháng 10 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 103/2017/QĐST-DS ngày 16 tháng 11 năm 2017 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Phùng Vĩ H, sinh năm: 1967; địa chỉ: đường PVT, PhườngB, Quận V, Thành phố H;
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Ngô B, sinh năm: 1993; địa chỉ: cư xá TĐ đường BQ, Phường HB, quận BT, Thành phố H là người đại diện theo ủy quyền (Giấy ủy quyền ngày 005792 số 10/7/2017 tại Văn phòng công chứng Nguyễn Nguyệt Huệ);
2. Bị đơn: Ông Trần Cẩm V, sinh năm: 1967; địa chỉ: đường XĐ, Phường T, Quận XI, Thành phố H; (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện ngày 19/4/2017, các bản tự khai và biên bản hòa giải, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn – ông Ngô B trình bày:
Vào ngày 15/6/2016, ông Phùng Vĩ H có cho ông Trần Cẩm V mượn số tiền 200.000.000đồng, thời hạn mượn là 6 tháng, không tính lãi, hai bên có làm giấy mượn tiền.
Hết thời hạn mượn, ông H nhiều lần yêu cầu ông V trả tiền nhưng ông V không thực hiện cam kết. Do đó, ông Phùng Vĩ H khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông Trần Cẩm V trả cho ông H số tiền 200.000.000đồng, không yêu cầu tính lãi.
Tòa án nhân dân Quận 11 đã thực hiện đầy đủ thủ tục tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng đối với bị đơn nhưng phía bị đơn đã không đến Tòa án để giải quyết. Do đó, Tòa án không thể tiến hành ghi nhận ý kiến đối với phía bị đơn được.
Tại phiên tòa hôm nay:
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện: Yêu cầu Tòa án buộc ông Trần Cẩm V trả cho ông H số tiền200.000.000đồng, ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa có ý kiến như sau:
- Về Thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, thông báo thụ lý vi phạm thời hạn tống đạt cho bị đơn, thời hạn đưa vụ án ra xét xử vượt quá thời hạn quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã tiến hành trình tự tố tụng đúng quy định của pháp luật.
- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Ông Phùng Vĩ H khởi kiện “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” với ông Trần Cẩm V. Bị đơn có trụ sở tại Quận 11 nên Tòa án nhân dân Quận 11 thụ lý và giải quyết là đúng theo quy định tại Khoản 3 Điều 26, Điểm a Khoản 1 Điều35 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Phiên tòa xét xử vụ án được mở vào lúc 8 giờ ngày 16/11/2017 và 14 giờ00 ngày 05/12/2017, ông Trần Cẩm V đã được thông báo về thời gian và địa điểm xét xử vụ án nêu trên nhưng đều vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về yêu cầu của nguyên đơn:
Ông Phùng Vĩ H yêu cầu ông Trần Cẩm V trả số tiền 200.000.000đồng, không yêu cầu tính lãi. Hội đồng xét xử căn cứ Giấy mượn tiền do ông Phùng VĩH cung cấp có nội dung thể hiện ông Trần Cẩm V viết ông V có mượn của ông Kỳ số tiền 200.000.000đồng là đúng sự thật. Theo xác minh của Công an Phường 7, Quận 5, ông Phùng Vĩ H có địa chỉ tại số 466/2 đường Phan Văn Trị, Phường 7, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh có tên thường gọi là Kỳ. Do đó, có đủ cơ sở xác định ông Kỳ trong Giấy mượn tiền do ông H cung cấp là ông Phùng Vĩ H.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ cho bị đơn các văn bản tố tụng: Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa. Thông báo về việc thụ lý vụ án đã ghi rõ nội dung sự việc, yêu cầu của nguyên đơn và các tài liệu chứng minh cho yêu cầu của nguyên đơn, nhưng phía bị đơn không đến Tòa án để giải quyết vụ án, không có ý kiến phản hồi về yêu cầu của nguyên đơn, không cung cấp chứng cứ chứng minh đã trả số tiền vốn và lãi nêu trên cho nguyên đơn. Như vậy bị đơn đã tự tước bỏ quyền chứng minh và cung cấp chứng cứ của mình.
Từ những nhận định trên, căn cứ vào Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn số tiền 200.000.000 (hai trăm triệu) đồng.
[3] Về lãi suất: Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn không yêu cầu bị đơn trả lãi đối với số tiền trên.
[4] Về án phí:
Nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả 200.000.000 đồng, được Tòa án chấp nhậntoàn bộ, nên theo quy định tại Khoản 2 Điều 26 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án nguyên đơn không phải chịu án phí, bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự là10.000.000 (mười triệu) đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 466 của Bộ luật dân sự;
Căn cứ vào Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Buộc ông Trần Cẩm V có nghĩa vụ trả cho ông Phùng Vĩ H số tiền là200.000.000 đồng, khi bản án có hiệu lực pháp luật.
2. Về án phí:
2.1 Ông Trần Cẩm V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 10.000.000 (Mười triệu) đồng.
2.2 Hoàn trả lại cho ông Phùng Vĩ H số tiền tạm ứng án phí đã nộp là5.000.000 (Năm triệu) đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AG/20141/0004062 ngày 04/5/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 271/2017/DS-ST ngày 05/12/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 271/2017/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 05/12/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về